Huấn luyên căn bản 6
Thời kỳ tuyên hứa
CÁC SÁCH CỰU ƯỚC
Kinh thánh Cựu ước là phần đầu của bộ kinh thánh Công Giáo, gồm 46 cuốn sách được viết và hoàn chỉnh bởi nhiều tác giả khác nhau, được hình thành trong khoảng thế kỷ X-I TCN. Sách được viết muộn nhất là sách Khôn Ngoan, vào khoảng năm 50-30 trước biến cố Chúa Giáng Sinh.
Các
sách Cựu ước được viết bằng tiếng Hípri, sau
này, được dịch sang tiếng Hy lạp.
II. Nội dung các sách
Kinh thánh Cựu ước được phân chia thành các loại:
1. Ngũ thư
Ngũ
Thư ghi lại những dữ kiện lịch sử cho thấy mối tương quan liên hệ thân thiết
giữa Thiên Chúa và con người.
Ngũ
Thư tuyên xưng:
- Có
một Thiên Chúa quyền năng sáng tạo vũ trụ và con người, và
- Đã
chọn tổ phụ Abraham để dẫn dắt dân Israel, đã ban cho
họ đất
hứa làm gia nghiệp.
- Thông qua các vị
thủ lãnh, Thiên Chúa ban lề luật và cứu thoát dân Người khỏi tay địch thù. Sứ mạng
của dân Israel chính là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất
và tuân giữ các lề luật đó.
Phần từ chương 12 đến hết, trình bày các truyền thống
của dân Israel và giải thích sự có mặt của họ trên đất Ai Cập.
Còn 11 chương đầu là một nỗ lực suy tư khởi đi từ
kinh nghiệm tôn giáo của Israel nhằm lý giải nguồn gốc vũ trụ và con người,
nguồn gốc sự ác và ơn cứu độ. Thiên Chúa mà Israel thờ là Ðấng đã tạo dựng vũ trụ và con người.
Thiên Chúa yêu thương và săn sóc con người hơn cả, dành cho con người một cuộc
sống vượt trên tất cả.
Sự ác đã có mặt trong cuộc sống là do con người gây
ra bởi sự từ chối vâng phục Ðấng Tạo Hóa và từ chối nhau. Nhưng Thiên Chúa đã
hứa giải thoát con người.
Sách Lêvi là công trình sưu tập các luật về phụng tự được xếp vào sau sách Xuất Hành, coi như luật lệ do Chúa đã ban qua ông Mose. Thực sự các luật lệ này đã phát triển qua nhiều thế hệ. Thiên Chúa dùng chính nền văn hóa của Israel để từng bước giáo dục họ.
Ông Mose ôn lại hành trình bốn mươi năm dưới sự che
chở và dìu dắt của Thiên Chúa, rồi tuyên lại Giao ước và kết thúc bằng một bài
ca với lời chúc phúc cho từng bộ lạc và cho toàn dân. Sách kết thúc với việc
ông Mose qua đời trên đỉnh Pítga.
Thực chất đây là một cuộc suy niệm về Giao ước và
tình yêu của Thiên Chúa và một lời mời gọi, thuyết phục dân đáp lại tình yêu
của Thiên Chúa, sau những kinh nghiêm bi đát của vương quốc phía bắc, rồi vương
quốc phía nam. Họ đã khước từ tình yêu Thiên Chúa nên tự chuốc lấy những tai
họa khủng khiếp đó (x. Ðnl 28). Sách Ðệ Nhị Luật nhắn nhủ dân lưu đày hãy quay
về với Thiên Chúa và trung thành với Giao ước.
Tuy được gắn vào vị trí thứ năm trong Ngũ Thư, nhưng
thực ra sách Ðệ Nhị Luật hiện có lại là cuốn mở đầu của bộ lịch sử gồm: Giôsuê,
Thủ Lãnh, Samuen 1-2, Vua 1-2. Tuy gọi là “lịch sử”, nhưng không phải theo
nghĩa chúng ta quen hiểu. Ðây là một nỗ lực đọc lại lịch sử Israel dưới ánh sáng Giao ước. Từ khi vào Ðất Hứa cho đến khi cả hai vương
quốc bị lưu đày. Những thăng trầm đều là hậu quả của việc trung thành hay phản
bội đối với Giao ước của Thiên Chúa (x. Tl 2,11-19).
a. Sách Giôsuê (Joshua)
Cuốn sách này trải qua nhiều lần biên soạn. Hình thức
hiện nay là của các soạn giả thuộc trào lưu đệ nhị luật với một chương (2,6 –
3,6) dẫn nhập tổng quát nêu rõ ý nghĩa tôn giáo của cuốn sách.
Sách Samuen quyển 1 và 2 khởi đầu với nhân vật Samuel
như là vị “thủ lãnh” cuối cùng và là người thiết lập chế độ quân chủ theo yêu
cầu của dân. Ông vua thứ nhất Saul được Samuel xức dầu tấn
phong đã không trung thành với Thiên Chúa nên bị Thiên Chúa phế bỏ. Ông vua thứ
hai Đavít
được Samuel xức dầu tấn phong nổi bật như
gương mẫu của sự trung thành với Thiên Chúa. Ông đã hoàn thành cuộc chinh phục
và thống nhất miền Ðất Hứa, loại trừ mối đe dọa là dân Philitinh, mở rộng biên
giới phía đông và phía bắc, chiếm được Giêrusalem,
lập làm thủ đô và đưa Hòm Bia Giao ước về đây. Ông đã được Thiên Chúa hứa cho
dòng dõi mãi mãi ngồi trên ngai.
Sách Các Vua quyển 1 và
2 kể về các vua từ Salômôn đến thời lưu đày. Sau vua Salômôn, công trình thống
nhất của Ðavít sụp đổ, hai vương quốc bắc và nam kình địch với nhau. Các vua
phía nam thì có tám vị được khen là trung thành với Thiên Chúa, nhưng sáu vị
vẫn còn để các nơi thờ phượng ngoại đạo tồn tại, chỉ có Khítkigia và Giôsia
được khen trọn vẹn. Lời phê về các vua đều theo tiêu chuẩn là sự trung thành
với Thiên Chúa và với một nơi thờ phượng duy nhất.
Trong bối cảnh ấy, bộ lịch sử thuộc trào lưu tư tế ra đời gồm các sách Sử Biên Niên 1-2, Étra và Nơkhemia. Tác giả thuộc giới tư tế, trong thành phần lãnh đạo ở Giêrusalem. Sử dụng tư liệu trong các sách thánh có trước và nhiều sách khác nay đã thất lạc, tác giả viết lại lịch sử của Israel nhằm giúp cho cộng đồng Do Thái lấy lại gốc rễ của mình và nhận ra mình đang sống cùng một lịch sử thánh như các thế hệ trước lưu đày. Tác giả trình bày vua Ðavít như hình ảnh vương quyền của Thiên Chúa và đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện và tình thương của Thiên Chúa. Công và tội của các vua được lượng giá tùy sự trung thành với lề luật và phụng tự đền thờ. Sự khẳng định ấy đồng thời cũng là một lời kết án và loại trừ đền thờ Garadim và cộng đồng quy tụ quanh đền thờ ấy. Nhằm minh chứng quan điểm thượng tôn Giêrusalem, tác giả đã đánh bóng khuôn mặt của Ðavít và coi ông là người đã thiết lập toàn bộ nền phụng tự đền thờ như đang diễn ra ở thời ông. Etra và Nơkhemia là hai vị lãnh đạo đã khôi phục Giêrusalem, đền thờ, luật Mose, việc phụng tự và sự trung thành với nòi giống.
Nếu đọc Étra – Nơkhemia như một tác phẩm duy nhất theo
truyền thống văn bản ban đầu, chúng ta dễ dàng nhận ra bốn phần của một công
trình khôi phục: 1. Er 1-6: khôi phục Đền Thờ; 2. Er 7-10: khôi phục cộng đoàn
phụng tự; 3. Nkm 1-7: khôi phục tường thành Giêrusalem; 4. Nkm 8-13: khôi phục cộng đoàn
theo Lề Luật.
b. Tôbia (Tobit), Judith và Esther
Sách Tôbia nhằm đề cao đời sống đạo đức của những
người sống xa Ðất Hứa. Chỉ cần trung thành giữ luật Chúa, cầu nguyện và làm
việc lành phúc đức là đẹp lòng Chúa và được chúc phúc.
Sách Judith và Esther
ca ngợi quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể dùng những phụ nữ
yếu đuối như thế để cứu cả dân Do Thái, khi họ đặt hết
niềm tin vào Người. Hai sách này xuất hiện trong bối cảnh cuộc nổi dậy của anh
em Macabê.
Cuốn thứ nhất viết vào khoảng năm 100 TCN, kể về giai
đoạn lịch sử từ vua Antiôkhô Êpiphanê lên ngôi (175 TCN) đến vua Gioan Hiếccanô
(134 TCN): các mưu đồ của vua Hy Lạp nhằm tiêu diệt đạo
Do Thái và cuộc kháng chiến thành công của anh em Macabê.
Chủ đích là chống lại phong trào chạy theo văn hóa Hy Lạp và đề cao sự trung thành với lề luật và đền thờ. Tác giả có vẻ muốn
biện minh cho dòng họ Macabê lúc đó đang bị chỉ trích vì những liên minh chính
trị và việc tiếm đoạt chức tư tế.
Sách Macabê 2 không phải là phần tiếp theo của Macabê
1, nhưng được soạn trước, khoảng năm 124 TCN. Macabê 2 kể về giai đoạn từ
vua Xêlêucô IV (trước vua Antiôkhô) đến cái chết của tướng Nicano.
Sách Macabê 1 quan trọng vì cung cấp những khẳng định rõ ràng về sự phục sinh, về sự thưởng phạt đời sau, về việc cầu nguyện cho người chết, về công trạng của các vị tử đạo, sự chuyển cầu của các thánh. Những điều này sẽ được Tân ước xác nhận.
4.
Các sách Ngôn Sứ
Ngôn
sứ là những người được Thiên Chúa kêu gọi để nói lời Thiên Chúa và nói thay cho
Thiên Chúa. Các ngài không chỉ loan báo sứ điệp bằng lời mà còn bằng cả đời
sống. Vì nói lời chân thật, nên các ngài bị người đời đánh đập, sỉ nhục, bị tù đày và giết chết.
Các
sách Ngôn Sứ là lời kêu gọi liên lỉ dân Israel trở về với
Thiên Chúa và sửa
đổi cuộc sống, đồng thời loan báo ngày Thiên
Chúa ban Đấng Cứu Độ cho nhân loại.
1. 1-39
gọi
là Isaia đệ nhất, vị ngôn sứ rao giảng ở xứ Giuđa vào thế kỷ VIII TCN. Một vài chương của thời kỳ sau được chen vào đây (24-27 và 34-35).
2. 40-55
gọi
là sách An Ủi, tức Isaia đệ nhị. Công trình của một ngôn sứ thời lưu đày, loan báo niềm hy vọng cứu độ và sứ mạng mới của dân Chúa.
3. 56-66
gọi
là Isaia đệ tam, có lẽ là một bộ sưu tập lời rao giảng của nhiều vị ngôn sứ trong thời kỳ từ lúc xây xong đền thờ mới (515 TCN) cho đến 445 TCN. Khi Nơkhemia hoàn tất việc trùng tu tường thành, dân chúng chán nản vì thấy đền thờ mới quá khiêm tốn, đời sống kinh tế chẳng khá gì, đời sống đạo đức cũng chẳng hơn xưa: vẫn đầy áp bức bóc lột, thối nát. Các ngôn sứ củng cố niềm tin của cộng đồng Do Thái hồi hương.
b. Giêrêmia (Jeremiah)
l. Giôna (Jonah)
o. Khabacúc (Habakkuk)
r. Dacaria (Zechariah)
1. 1-8
thuộc
thời kỳ tái thiết và phục hưng, cổ võ việc khôi phục đạo đức;
2. 9-14
thuộc
thời kỳ cuối thế kỷ IV TCN, lúc đế quốc Hy Lạp mới bành trướng. Có người còn chia phần này làm hai: 9-11 và 12-14. Tầm quan trọng của phần 9-14 là do giáo huấn về Ðấng Mêsia, được Chúa Giêsu và các sách Tân ước trích dẫn nhiều.
Các
sách Giáo Huấn là một tập sách về kinh nghiệm sống của các bậc thánh hiền, dạy
những lẽ khôn ngoan về cách đối nhân xử thế sao cho phù hợp với thánh ý Thiên
Chúa và hòa hợp với đồng loại trong mọi hoàn cảnh thăng trầm của cuộc sống. Đặc
biệt, sách Thánh Vịnh là một bộ sưu tập 150 bài thơ, là những lời chúc tụng, tạ
ơn, cầu xin và than thở của dân Chúa. Thánh vịnh là lời Thiên Chúa dạy dân Chúa
cầu nguyện.
Là một vở kịch bằng thơ, có lẽ xây dựng trên một cốt truyện có trước bằng văn xuôi. Chủ đề là vấn đề đau khổ. Tác phẩm phản kháng quan niệm cổ điển về thưởng phạt, nhưng chưa đưa ra một giải đáp cụ thể, mà chỉ đặt người ta đối diện với mầu nhiệm của quyền năng Thiên Chúa và đưa đến thái độ im lặng tôn thờ.
b. Sách Thánh Vịnh (Psalms)
Là bộ sưu tập thánh ca gồm những bài ca vịnh được sáng tác ở nhiều thời đại khác nhau, từ thời vua Ðavít đến thế kỷ III TCN. Trước thời lưu đày đã có những bộ sưu tập các thánh vịnh để dùng trong phụng vụ ở đền thờ. Sau lưu đày, các bộ sưu tập này lại có thêm những tác phẩm mới để dùng trong đền thờ mới. Ðây là kho tàng kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu ước cũng như trong Tân ước. Mọi tình huống, mọi tâm tình của con người được diễn tả, bộc bạch trước mặt Thiên Chúa với lòng đơn sơ, dạn dĩ, tin tưởng: cảm tạ, ngợi khen, thống hối, ai oán, than van, vui, buồn, chất vấn Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa chất vấn, khẩn cầu. Hội thánh Công giáo sử dụng các thánh vịnh trong các giờ kinh phụng vụ và phụng vụ lời Chúa. Có thể xếp theo thể loại: tụng ca, vương triều, khẩn cầu, tạ ơn, hành hương, giáo huấn.
c. Sách Châm Ngôn (Proverbs)
Gồm nhiều bộ sưu tập châm ngôn: 10-22,16
và 25-29 (châm ngôn
của Salômôn); 22,17-24,22 (lời của
những người khôn ngoan); 30,1-14 (lời của Agua); 30,15-33
(châm
ngôn theo con số); 31,1-9 (lời của Lơmuên). Chín chương đầu là phần dẫn nhập: cha dạy con (1-7)
và
chính sự khôn ngoan lên tiếng (8-9). Cuốn sách như hiện nay có từ thế kỷ V TCN. Cuốn sách được hình thành qua nhiều thế kỷ, nên cần lưu ý đến sự phát triển về tư tưởng.
d. Sách Giảng Viên (Ecclesiastes)
III. Giá trị của các sách Cựu ước
Các sách Cựu ước không chỉ là sách thánh của dân Israel, nhưng còn là sách thánh của người Kitô giáo, vì là sách ghi lời Thiên Chúa. Nội dung của Cựu ước mang nhiều chi tiết tiên báo cho những sự việc sẽ diễn ra và được làm sáng tỏ trong Tân ước.
Thánh
Phaolô nói: “Mọi lời xưa đã chép trong thánh kinh đều để dạy dỗ chúng ta. Những
lời ấy làm cho chúng ta thêm kiên nhẫn và an ủi chúng ta, nhờ đó chúng ta vững
lòng trông cậy” (Rm 15, 4).
CÁC SÁCH TÂN ƯỚC
I.
Giới
thiệu tổng quát
3.
Gồm có
–
Sách Công Vụ Tông Đồ do thánh Luca biên soạn.
–
14 thư của thánh Phaolô gửi cho các giáo đoàn và các cá nhân
–
7 thư chung: thư của thánh Giacôbê, thánh Phêrô (2), thánh Gioan (3), thánh
Giuđa.
–
Sách Khải Huyền.
II.
Các
sách Tin mừng
Về
sau, hạn từ “Tin Mừng” được dùng để chỉ bốn tác phẩm đầu tiên của tập sách Tân ước
nhằm loan báo Tin mừng vĩ đại cho cả nhân loại là Con Một Thiên Chúa nhập thể
làm người và ở giữa chúng ta để cứu độ chúng ta.
Tóm
lại, hạn từ “Tin Mừng” có hai nghĩa: vừa là lời loan báo ơn cứu độ, vừa chỉ các
tập sách chép lại lời loan báo đó.
Các
sách Tin mừng không phải là một tập sách do các phóng viên ghi chép lại từng
lời, từng việc làm của Đức Giêsu, nhưng là một tập sách được viết ra do cả một
tập thể lãnh nhận, chia sẻ, suy niệm rồi mới biên soạn thành sách, với sự hiểu biết sâu xa về những điều mà họ biết và
sống với Đức Giêsu.
Tân ước cũng cho chúng ta biết sự hình
thành và phát triển bước đầu của giáo hội Công giáo và những sự kiện được tiên báo
về thời kỳ cuối cùng tới ngày Chúa quang lâm.
–
Phần II (từ 15,35–28,31): Tập trung vào hành trình truyền giáo của thánh
Phaolô, nhờ đó Tin mừng được loan báo cho thế giới dân ngoại và hội thánh lan
rộng khắp nơi.
IV.
Các
thư của thánh Phaolô
Dựa
vào Sách Công Vụ Tông đồ và các thư của thánh nhân, chúng ta có một bản tóm tắt về cuộc đời của thánh nhân như sau:
–
Khoảng năm 10 SCN: sinh tại Tarsô xứ Kilikia, trong một gia đình Do Thái, thuộc
chi tộc Benjamin, đồng thời là công dân Rôma. Đến Giêrusalem rất sớm, theo học
với ông Gamalien thuộc phái Pharisêu. Vì vậy, sau này người kịch liệt ngược đãi
hội thánh mới hình thành.
–
Khoảng năm 30 SCN: Đức Giêsu chết và phục sinh.
–
Khoảng năm 36: thánh Stephanô tử đạo. Phaolô có tham gia vụ án này.
–
Cũng năm 36: Trên đường Damas, Đức Giêsu hiện ra và trao cho người sứ mạng làm
tông đồ dân ngoại. Ngay sau đó, người bắt đầu công việc rao giảng Đức Giêsu
Kitô.
–
Năm 39: Lên Giêrusalem gặp các tông đồ lần đầu tiên, trở về Xyria, Kilikia, rồi
sau đó qua Antiokia với thánh Barnaba.
–
Năm 45–49: Chuyến đi truyền giáo đầu tiên: Sýp, Pamphilia, Pixidia và Lycaonia.
Ở đây người bắt đầu được gọi là Phaolô (tên Latinh), về sau tên này thường được
dùng hơn là Saolo (tên gốc Do Thái).
–
Năm 49: Dự Công Đồng Giêrusalem. Tại đây, có lẽ nhờ ảnh huởng của người, các
tông đồ quyết định không buộc người Kitô hữu gốc ngoại phải giữ luật Do Thái;
đồng thời các ngài cũng công nhận Phaolô làm tông đồ dân ngoại.
–
Từ năm 50–52: Chuyến truyền giáo thứ hai: người lưu lại Côrintô hơn 18 tháng,
viết hai thư 1 và 2 Thessalônica (50-51).
–
Từ năm 53–58: Chuyến đi truyền giáo thứ ba: hơn hai năm ở Êphêxô; viết thư
Philiphê (56-57), thư thứ nhất Côrintô (Vượt Qua 57); một năm tại Maceđônia; viết thư thứ hai Côrintô (mùa thu 57), và có lẽ
thư Galat cũng được viết tại Maceđônia. Hai năm tại
Côrintô, viết thư Rôma (mùa đông 57-58).
–
Năm 58: bị bắt tại Giêrusalem.
–
Năm 58-60: bị giam tại Xêdarê Palestine.
–
Mùa thu 60: bị giải về Rôma và giam tại đó. Viết các thư Côlôxê, Êphêsô và
Philemon.
–
Năm 63: được miễn tố và trả tự do.
–
Năm 63-66: Các năm hoạt động cuối cùng. Viết các thư Titô và thứ nhất Timôtê.
–
Năm 66: bị bắt giam tại Rôma lần thứ hai, viết thư thứ 2 Timôtê.
–
Năm 67: tử đạo tại Rôma, dưới thời Nêrô.
2.
Phân loại các thư của thánh Phaolô
–
Các thư “lớn”: Galát, 1 và 2 Côrintô,
Roma, 1 và 2 Thexalônica. Nội dung: Ơn công chính hóa, về ngày Quang Lâm của
Đức Giêsu, các vấn đề mà cuộc sống hằng ngày đặt ra cho các tân tòng và các hội
thánh mới được thành lập.
–
Các thư viết trong tù: Côlôsê, Philipê, Ephêsô, Philêmon. Vấn đề nổi bật: vai trò của Đức Kitô trong vũ trụ
và lịch sử. Ngoài ra, trong các thư đó, tác giả lo âu trước những tư tưởng của
thuyết khắc kỷ sai lầm, khiến người phải cố vạch ra một lối sống Kitô giáo toàn
diện.
-Các
thư mục vụ: 1 và 2 Timôtê và Titô. Cả ba thư này cho
thấy thánh Phaolô rất bận tâm với các cộng đoàn đang sống giữa những trào lưu
tiền ngộ đạo. Vì thế, và đồng thời cũng linh cảm “cuộc ra đi” của mình đã gần
kề, nên ngài đã chỉ ra những nguyên tắc lãnh đạo cộng đoàn cho hai môn đệ Timôtê và Titô.
3.
Những điểm chính yếu trong các thư của Phaolô
–
Hội thánh là thân thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô, được xây dựng trên lời rao giảng
Tin mừng, gồm có Do Thái và dân ngoại trong bình đẳng và tự do của con cái
Chúa.
–
Công cuộc cứu chuộc được liên kết với mầu nhiệm Ba Ngôi, sáng kiến của
Thiên Chúa Cha, được thực hiện bởi Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
4.
Nội dụng các thư của thánh Phaolô
Thư
gồm 16 chương, được chia thành ba phần chính:
–
Phần 1 (ch. 1-8): Trình bày trọng tâm lời rao giảng là Tin mừng về sự công
chính hóa của Thiên Chúa ban, đặt nền tảng trên lòng tin vào Đức Kitô (Phép
rửa: ơn công chính và Đức Tin, luật dạy).
–
Phần 2 (ch. 9-11): Bàn về vấn đề nan giải của các tín hữu gốc Do Thái. Dân Do Thái
đã được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước, tại sao nay đã đến thời Thiên
Chúa thực hiện giao ước thì họ lại không tin (Do Thái hay không Do Thái đều mắc
tội. Vậy để được cứu độ, họ phải chết đi với Đức Kitô [qua phép rửa] để được
sống lại).
–
Phần 3 (ch. 12-15): Nói về những chỉ dẫn thực tế cho đời sống đạo của cộng
đoàn.
b.
Thư thứ I gửi tín hữu Côrintô
Thư
được viết và gửi khoảng năm 55 hoặc 56, khi thánh Phaolô đang ở Êphêsô. Nội dung
bức thư nhằm giải quyết những chuyện không hay đang xảy ra trong giáo đoàn:
chia phe cánh, kiện tụng nhau ở tòa án đời, vô luân và lạm dụng các cuộc họp
“bẻ bánh”. Ngoài ra, thánh nhân cũng trả lời một vài thắc mắc của giáo đoàn
như: vấn đề khiết tịnh và hôn nhân, ăn thịt cúng, đoàn sủng.
Thư
gồm có 16 chương, chia thành ba phần chính: - Phần 1 (ch. 1-6): giải quyết sự chia rẽ và gương xấu. - Phần 2 (ch. 7-14): giải quyết những thắc mắc liên quan đến đời
sống đạo. - Phần 3 (ch. 15): vấn đề kẻ chết sống lại.
c.
Thư thứ II gửi tín hữu Côrintô
Thư
gồm có 13 chương, chia thành ba phần:
–
Phần 1 (ch. 1-7): biện hộ cho thái độ của mình.
–
Phần 2 (ch. 8-9): nói đến việc quyên góp giúp tín hữu ở Giêrusalem.
–
Phần 3 (ch. 10-13): kể về công việc truyền giáo đang thực hiện nhằm biện hộ cho tác vụ tông đồ của ngài.
d.
Thư gửi tín hữu Galát
Trong
hành trình truyền giáo lần thứ ba, khi đi ngang qua miền Macêdônia, thánh nhân
đã gởi thư này cho giáo đoàn này. Lý do, khoảng năm 54-56, một số người mang
theo một tin mừng sai lạc đến Galát, khiến cho giáo đoàn này gặp cơn khủng
hoảng.
Thư
này gồm có 6 chương, trình bày:
–
Tin mừng đó bởi đâu? Do thánh Phaolô nhận trực tiếp từ Đức Kitô, Đấng đã gọi người
trong biến cố Damas.
–
Tin mừng đó là gì? Đức Giêsu Kitô là Đấng mà lịch sử Israel đã báo trước. Người
là nguồn cứu độ độc nhất cho những kẻ tin, chứ không phải lề luật Cựu ước và
việc cắt bì.
–
Tin mừng đó đem lại những gì cho kẻ tin? Đem lại sự tự do, sự sống mới nhờ
Thánh Thần, trong Đức Kitô. Muốn hưởng được đời sống này, người tín hữu phải
trải qua thập giá.
e.
Thư gửi tín hữu Êphêsô
Khoảng
năm 62-63, khi người đang ở trong tù, giáo đoàn Êphêsô trải qua một thời kỳ khó
khăn, thánh nhân đã viết thư này để an ủi họ.
Thư
gồm 6 chương với 2 phần chính:
–
Phần 1 (ch. 1-3): trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được Đức Kitô thực
hiện, nhằm quy tụ một hội thánh bao gồm cả người Do Thái và Dân ngoại. Người
tín hữu cần luôn kết hiệp, nên một với Đức Kitô để xây dựng hội thánh duy nhất.
–
Phần 2 (ch. 4-6): thánh nhân nhắn nhủ các tín hữu sống cho xứng với ơn Thiên
Chúa kêu gọi.
f.
Thư gửi tín hữu Philipphê
Thư
được viết khoảng năm 62-63 lúc thánh nhân đang bị cầm tù ở Rôma.
Nội dung thư là lời cảm ơn các tín hữu đã tận tình giúp đỡ vật chất cho công
tác truyền giáo của người.
Thư
chỉ có 4 chương. Trong thư, thánh tông đồ bày tỏ tâm sự của mình cho các tín
hữu, mặc dù bị tù, nhưng người vẫn vui sướng vì Đức Kitô vẫn được rao
giảng. Người cũng nhắc nhở các tín hữu hãy tỉnh thức trước những mầm mống chia
rẽ, bất hòa bằng cách nhìn vào gương mẫu khiêm hạ của Đức Kitô.
g.
Thư gửi tín hữu Côlôsê
Thư
gồm có 4 chương, chia thành 3 phần:
–
Phần 1 (ch. 1, 3–2, 3): Đức Kitô là chủ tể vũ trụ và là đầu của hội thánh.
–
Phần 2 (ch. 2, 4–3, 4): nhắn nhủ mọi người hãy đề phòng giáo lý sai lạc.
–
Phần 3 (3, 5–4, 6): là những lời khuyên nhủ.
h. Thư thứ I gửi tín hữu Thexalônica
Thư
này được viết tại Côrintô khoảng năm 50-51.
Thư
có 5 chương. Thánh nhân tỏ lời khen ngợi giáo đoàn về những tiến triển tốt đẹp
của họ trong cách sống đạo, an ủi họ trong những thử thách. Cũng trong thư này,
người đã thanh minh về những lời vu cáo của những người Do Thái. Ngoài ra, người
khuyên nhủ họ sống theo những nguyên tắc đã dạy và đưa ra một điểm giáo lý quan
trọng về xác loài người sẽ sống lại trong ngày Chúa quang lâm. Do vậy, người
Kitô hữu phải chuẩn bị và phải sống trong niềm hy vọng trong khi mong chờ Chúa
đến.
i.
Thư thứ II gửi tín hữu Thexalônica
Là
một thư ngắn chỉ có 2 chương: nhằm đính chính cho các tín hữu biết rằng: Chúa
chưa đến ngay đâu, mọi người cần phải bình tĩnh và chăm chỉ làm việc. Bởi ở nội
dung thư thứ nhất, các tín hữu lầm tưởng ngày Chúa đến đã gần lắm, nên âu lo,
bỏ bê cả việc bổn phận.
k.
Thư thứ I gửi cho ông Timôtê
–
Phải coi chừng các lạc thuyết chủ trương thế giới vật chất là xấu xa, kiêng cữ
một số thực phẩm và coi thường đời sống hôn nhân.
–
Những chỉ dẫn liên quan đến việc thờ phượng, tổ chức cộng đoàn hội thánh và tác
phong phải có của người điều khiển cộng đoàn.
–
Những lời khuyên môn đệ Timôtê trong trách vụ săn sóc các nhóm tín hữu khác
nhau (các bà góa, các nô lệ), hầu trở nên một nguời phục vụ đắc lực cho Đức
Kitô.
l.
Thư thứ II gửi cho ông Timôtê
Thư
có 4 chương, là những lời khuyên ông Timôtê phải kiên trì trong thử thách,
trung thành rao giảng Tin mừng. Người cũng bày tỏ tình trạng nguy kịch của
mình, nhưng vẫn dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.
m. Thư gửi cho ông Titô
Thư
gồm có 3 chương, gồm những lời chỉ dẫn của thánh nhân nhằm giúp ông Titô coi
sóc cộng đoàn này, một ít điều về đạo lý chống lại lạc thuyết.
n. Thư gởi cho ông Philemon
Đây
là thư ngắn nhất, chỉ có 25 câu. Qua thư, thánh Phaolô muốn ông Philemon nhận
lại anh Ônêximô, vốn là một người nô lệ của ông Philemon đã bỏ trốn, nay được
thánh nhân rửa tội. Người xin ông Philemon coi anh Ônêximô như người anh em
trong Đức Kitô. Qua trường hợp này, thánh tông đồ đã giải quyết vấn đề người nô
lệ. Trong Đức Kitô, không còn phân biệt nô lệ hay tự do (Gl 3, 28), vì thế mọi
người phải thương yêu nhau như anh em.
V.
Các
thư chung
Các
thư này được gọi là thư chung, vì không được xác định là gởi cho giáo đoàn hay
nhân vật nào riêng biệt.
Các
thư chung đó gồm: 01 của thánh Giacôbê; 02 của thánh Phêrô; 03 của thánh Gioan
và 01 của thánh Giuda Tadeo.
1.
Thư của thánh Giacôbê
–
Thư thứ II: khuyến cáo các giáo đoàn phải đề phòng các “thầy dạy giả hiệu” với
các lạc thuyết đưa đến diệt vong, Thánh Phêrô khẳng định: các tín hữu được Lời
Chúa dạy dỗ qua các ngôn sứ và tông đồ, mà Lời Chúa được ghi chép trong thánh kinh.
Chúa sẽ quang lâm, nhưng Chúa đến chậm là để người tội lỗi có cơ hội thống hối.
3.
Ba thư của thánh Gioan
4.
Thư của thánh Giuđa Tađeo
VI.
Sách
Khải Huyền
Chẳng
hạn, về màu sắc: trắng ám chỉ sự chiến thắng, trong sạch; đỏ ám chỉ sự giết
chóc, bạo lực và máu của các vị tử đạo; đen ám chỉ sự chết, sự vô đạo. Về hình
ảnh: cái sừng chỉ sức mạnh; tóc bạc chỉ sự vĩnh cửu; áo dài chỉ về phẩm chức tư
tế; đai lưng bằng vàng chỉ vương quyền.
Tương
truyền, sách Khải Huyền do thánh tông đồ Gioan biên soạn vào cuối thế kỷ thứ I,
viết cho hội thánh Tiểu á đang lâm cơn thử thách. Người gửi cho họ một sứ điệp
hy vọng: “Đức Kitô sẽ đến”, phần thắng thuộc về Đức Kitô. Nhưng trong thời gian
chờ đợi, thì hội thánh vẫn bị bách hại và phải chiến đấu luôn.
Comments
Post a Comment