Huấn luyên căn bản 6

 Thời kỳ tuyên hứa

CÁC SÁCH CỰU ƯỚC

 I. Nguồn gốc xuất xứ

Kinh thánh Cựu ước là phần đầu của bộ kinh thánh Công Giáo, gồm 46 cuốn sách được viết và hoàn chỉnh bởi nhiều tác giả khác nhau, được hình thành trong khoảng thế kỷ X-I TCN. Sách được viết muộn nhất là sách Khôn Ngoan, vào khoảng năm 50-30 trước biến cố Chúa Giáng Sinh.

Các sách Cựu ước được viết bằng tiếng Hípri, sau này, được dịch sang tiếng Hy lạp.


II. Nội dung các sách

Kinh thánh Cựu ước  được phân chia thành các loại:

1. Ngũ thư

 Ngũ Thư (Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số và Đệ Nhị Luật) là năm cuốn sách bộ luật Cựu ước làm nền tảng giáo lý của Do Thái giáo và các sách khác của toàn bộ Kinh Thánh.

Ngũ Thư ghi lại những dữ kiện lịch sử cho thấy mối tương quan liên hệ thân thiết giữa Thiên Chúa và con người.

Ngũ Thư tuyên xưng:

- Có một Thiên Chúa quyền năng sáng tạo vũ trụ và con người, và

- Đã chọn tổ phụ Abraham để dẫn dắt dân Israel, đã ban cho họ đất hứa làm gia nghiệp.

- Thông qua các vị thủ lãnh, Thiên Chúa ban lề luật và cứu thoát dân Người khỏi tay địch thù. Sứ mạng của dân Israel chính là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ các lề luật đó.

 a. Sách Sáng Thế (Genesis)

 Sách Sáng Thế gồm hai phần rõ rệt.

Phần từ chương 12 đến hết, trình bày các truyền thống của dân Israel và giải thích sự có mặt của họ trên đất Ai Cập.

Còn 11 chương đầu là một nỗ lực suy tư khởi đi từ kinh nghiệm tôn giáo của Israel nhằm lý giải nguồn gốc vũ trụ và con người, nguồn gốc sự ác và ơn cứu độ. Thiên Chúa mà Israel thờ là Ðấng đã tạo dựng vũ trụ và con người. Thiên Chúa yêu thương và săn sóc con người hơn cả, dành cho con người một cuộc sống vượt trên tất cả.

Sự ác đã có mặt trong cuộc sống là do con người gây ra bởi sự từ chối vâng phục Ðấng Tạo Hóa và từ chối nhau. Nhưng Thiên Chúa đã hứa giải thoát con người.

 b. Sách Xuất Hành (Exodus), Sách Lêvi (Leviticus) và Sách Dân số (Numbers)

 Ba cuốn sách này xoay quanh biến cố thành lập dân Chúa và Cựu ước.

 Sách Xuất Hành kể lại cuộc ra khỏi Ai Cập như một kinh nghiệm về quyền năng giải phóng của Thiên Chúa và Giao ước Xinai như một kinh nghiệm cộng đồng về sự gặp gỡ Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận đám dân hỗn tạp này làm dân của Người. Người sẽ bênh vực họ và dẫn họ vào chiếm lãnh miền đất Người đã hứa với tổ tiên họ. Phần họ, họ phải tuân giữ các luật lệ Người ban qua ông Mose.

Sách Lêvi là công trình sưu tập các luật về phụng tự được xếp vào sau sách Xuất Hành, coi như luật lệ do Chúa đã ban qua ông Mose. Thực sự các luật lệ này đã phát triển qua nhiều thế hệ. Thiên Chúa dùng chính nền văn hóa của Israel để từng bước giáo dục họ.

 Sách Dân số tiếp tục kể về cuộc hành trình trong hoang địa. Mười chương đầu vẫn tiếp tục kể việc kiểm tra, tổ chức dân chúng và nghi lễ thánh hiến hàng tư tế ở Xinai. Ở chương 11, dân chúng nhổ trại tiến bước như một đám rước kiệu Hòm Bia Giao ước. Cuộc hành trình qua hoang địa tiếp tục với những thăng trầm phức tạp, nhưng Thiên Chúa luôn dẫn dắt họ. Mối cản trở chính không phải là những khó khăn ngang đường, nhưng là việc dân Israel không trung thành với Giao ước của Thiên Chúa. Sách này kết thúc với việc dân tới được đồng bằng Môáp bên kia sông Giođan.

 c. Sách Ðệ Nhị Luật (Deuteronomy)

 Sách Ðệ Nhị Luật được ráp nối vào sau sách Dân số bằng khung cảnh giả tưởng đây là những lời ông Mose nói với dân Israel ở bên kia sông Giođan, trước khi ông qua đời ở núi Nơvô trên đỉnh Pítga đối diện với Giêrikhô, thành phố mà Israel sẽ chiếm được trước tiên sau khi vượt qua sông Giođan.

Ông Mose ôn lại hành trình bốn mươi năm dưới sự che chở và dìu dắt của Thiên Chúa, rồi tuyên lại Giao ước và kết thúc bằng một bài ca với lời chúc phúc cho từng bộ lạc và cho toàn dân. Sách kết thúc với việc ông Mose qua đời trên đỉnh Pítga.

Thực chất đây là một cuộc suy niệm về Giao ước và tình yêu của Thiên Chúa và một lời mời gọi, thuyết phục dân đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, sau những kinh nghiêm bi đát của vương quốc phía bắc, rồi vương quốc phía nam. Họ đã khước từ tình yêu Thiên Chúa nên tự chuốc lấy những tai họa khủng khiếp đó (x. Ðnl 28). Sách Ðệ Nhị Luật nhắn nhủ dân lưu đày hãy quay về với Thiên Chúa và trung thành với Giao ước.

 2. Các sách lịch sử thuộc trào lưu đệ nhị luật

 Gồm 16 cuốn: Giôsuê, Thủ lãnh, Rút, 2 sách Samuen, 2 sách các vua, 2 sách Sử ký, Étra, Nơkhêmia, Tôbia, Giuđitha, Étte, 2 sách Macabê.

 Nhìn chung, các sách lịch sử ghi lại dòng lịch sử thăng trầm của dân Israel, để nói lên rằng khi họ trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì họ được Thiên Chúa chúc phúc và trợ giúp. Ngược lại, khi họ bỏ Lề Luật của Thiên Chúa thì đất nước sẽ suy vọng và cuộc sống của họ sẽ cơ cực trong cảnh lưu đày nô lệ.

Tuy được gắn vào vị trí thứ năm trong Ngũ Thư, nhưng thực ra sách Ðệ Nhị Luật hiện có lại là cuốn mở đầu của bộ lịch sử gồm: Giôsuê, Thủ Lãnh, Samuen 1-2, Vua 1-2. Tuy gọi là “lịch sử”, nhưng không phải theo nghĩa chúng ta quen hiểu. Ðây là một nỗ lực đọc lại lịch sử Israel dưới ánh sáng Giao ước. Từ khi vào Ðất Hứa cho đến khi cả hai vương quốc bị lưu đày. Những thăng trầm đều là hậu quả của việc trung thành hay phản bội đối với Giao ước của Thiên Chúa (x. Tl 2,11-19).

a. Sách Giôsuê (Joshua)

 Dựa vào các truyền thống phía bắc, trình bày cuộc chiếm lãnh Ðất Hứa như một thiên anh hùng ca tiếp nối thiên anh hùng ca của cuộc xuất hành: tất cả các bộ lạc đồng tâm góp sức dưới sự chỉ huy của Giôsuê vượt qua sông Giođan như đã vượt qua Biển Ðỏ bốn mươi năm trước, rồi tiến như vũ bão từ chiến thắng này qua chiến thắng khác, để chiếm lãnh toàn miền đất Thiên Chúa đã chỉ cho Mose (chương 1-12). Sau đó là cuộc phân chia đất đai giữa các bộ lạc (chương 13-21). Và cuối cùng là đại hội toàn dân ở Sikhem. Giôsuê cũng nói những lời cuối cùng theo kiểu Mose khi ở bên kia sông Giođan, công bố lại Giao ước và lập bia chứng ước. Giôsuê là người được Thiên Chúa tuyển chọn để chạy tiếp sức với ông Mose: Mose dẫn dân từ Ai Cập đến bờ sông Giođan, Giôsuê dẫn dân vào chiếm lãnh và định cư trên Ðất Hứa. Cuốn sách kết thúc với việc hài cốt ông Giuse được an táng ở Sikhem tại phần đất ông Giacóp đã mua. Thế là cuộc hành trình nhiều thế kỷ của nhà Giacóp đã kết thúc: từ Sikhem xuống Ai Cập nay lại về Sikhem. Lời hứa của Thiên Chúa cho tổ phụ Abraham về một miền đất và một dòng dõi đông đúc nay đã thành sự thật.

 b. Sách Thủ Lãnh (Judges)

 Gọi theo danh từ chung chỉ các vị anh hùng trong cuốn sách, họ là những người được Thiên Chúa sai đến cầm đầu các cuộc giải phóng, rồi làm người xét xử mọi việc trong dân, vì thế cũng dịch là “quan án”, “phán quan” – “xét xử” ở nền văn hóa này đồng nghĩa với cai trị. Về một số vị, sách chỉ nêu tên và số năm “xét xử” chứ không kể một hành động giải phóng nào. Mười hai vị này chẳng bao giờ “xét xử” toàn thể Israel mà chỉ giới hạn trong từng bộ lạc. Tuy nhiên, sách Thủ Lãnh đã biến họ thành những anh hùng giải phóng hoặc cai trị toàn thể Israel, đồng thời phân bổ số năm hoạt động của mỗi vị theo những con số ước lệ: 20, 40, 80 để có được con số bốn trăm tám mươi năm tính từ khi ra khỏi Ai Cập cho đến khi xây đền thờ (1V 6,1).

Cuốn sách này trải qua nhiều lần biên soạn. Hình thức hiện nay là của các soạn giả thuộc trào lưu đệ nhị luật với một chương (2,6 – 3,6) dẫn nhập tổng quát nêu rõ ý nghĩa tôn giáo của cuốn sách.

 c. Sách Samuel và sách các Vua (Kings)

 Trong bản văn gốc tiếng Do Thái có một sách Samuel và một sách Các Vua. Bản dịch Hy Lạp đã chia thành bốn cuốn “Các triều đại”, bản dịch Latinh (Phổ thông) theo bản Hy Lạp, chia thành bốn cuốn “Các Vua”. Các bản dịch mới giữ cách chia bốn, nhưng gọi là sách Samuel quyển 1 và 2 và sách Các Vua quyển 1 và 2.

Sách Samuen quyển 1 và 2 khởi đầu với nhân vật Samuel như là vị “thủ lãnh” cuối cùng và là người thiết lập chế độ quân chủ theo yêu cầu của dân. Ông vua thứ nhất Saul được Samuel xức dầu tấn phong đã không trung thành với Thiên Chúa nên bị Thiên Chúa phế bỏ. Ông vua thứ hai Đavít được Samuel xức dầu tấn phong nổi bật như gương mẫu của sự trung thành với Thiên Chúa. Ông đã hoàn thành cuộc chinh phục và thống nhất miền Ðất Hứa, loại trừ mối đe dọa là dân Philitinh, mở rộng biên giới phía đông và phía bắc, chiếm được Giêrusalem, lập làm thủ đô và đưa Hòm Bia Giao ước về đây. Ông đã được Thiên Chúa hứa cho dòng dõi mãi mãi ngồi trên ngai.

Sách Các Vua quyển 1 và 2 kể về các vua từ Salômôn đến thời lưu đày. Sau vua Salômôn, công trình thống nhất của Ðavít sụp đổ, hai vương quốc bắc và nam kình địch với nhau. Các vua phía nam thì có tám vị được khen là trung thành với Thiên Chúa, nhưng sáu vị vẫn còn để các nơi thờ phượng ngoại đạo tồn tại, chỉ có Khítkigia và Giôsia được khen trọn vẹn. Lời phê về các vua đều theo tiêu chuẩn là sự trung thành với Thiên Chúa và với một nơi thờ phượng duy nhất.

 d. Sách Rút (Ruth)

 Trong bản Hy Lạp, Latinh và các bản dịch mới, sách Rút được đặt liền sau sách Thủ lãnh. Bản Do Thái đặt trong bộ năm cuốn để đọc trong các dịp lễ nhất định: Diễm ca đọc dịp lễ Vượt Qua; Rút, dịp lễ Ngũ Tuần; Ai ca, ngày 9 tháng Áp, kỷ niệm Ðền Thờ bị thiêu hủy; Giảng viên, dịp lễ Lều; và Este, ngày lễ Purim. Sách kể chuyện một người đàn bà xứ Môáp đã trở thành bà cố nội của vua Ðavít. Chính yếu tố này đem lại cho cuốn sách tầm quan trọng đặc biệt.

 3. Các sách Lịch Sử thuộc trào lưu tế

 Từ khi trở về sau lưu đày, dân xứ Giuđa đã xây dựng một cộng đồng lấy đền thờ làm trung tâm luật Mose làm luật sống. Cộng đồng này vẫn được đế quốc Ba Tư, rồi đế quốc Hy Lạp dành cho một quyền tự trị dưới sự lãnh đạo của tầng lớp tế. Nhưng từ ngày hồi hương, họ luôn gặp sự chống đối của cộng đồng Samariphía bắc. Cộng đồng này cũng nhận sách luật Mose do Étra công bố, nhưng vẫn không muốn thuộc quyền giới tếGiêrusalem. Vào những thập niên đầu của đế quốc Hy Lạp (do Alêxanđê Ðại Ðế mở mang), cộng đồng Samari đã xin được quyền xây một đền thờ trên núi Garidim. Thế sự cạnh tranh giữa hai cộng đồng hai đền thờ trở nên gay gắt (x. Ga 4, câu chuyện giữa Chúa Giêsu người đàn Samari).

Trong bối cảnh ấy, bộ lịch sử thuộc trào lưu tế ra đời gồm các sách Sử Biên Niên 1-2, Étra Nơkhemia. Tác giả thuộc giới tế, trong thành phần lãnh đạo ở Giêrusalem. Sử dụng liệu trong các sách thánh trước nhiều sách khác nay đã thất lạc, tác giả viết lại lịch sử của Israel nhằm giúp cho cộng đồng Do Thái lấy lại gốc rễ của mình nhận ra mình đang sống cùng một lịch sử thánh như các thế hệ trước lưu đày. Tác giả trình bày vua Ðavít như hình ảnh vương quyền của Thiên Chúa đền thờ Giêrusalem dấu chỉ sự hiện diện tình thương của Thiên Chúa. Công tội của các vua được lượng giá tùy sự trung thành với l luật phụng tự đền thờ. Sự khẳng định ấy đồng thời cũng một lời kết án loại trừ đền thờ Garadim cộng đồng quy tụ quanh đền thờ ấy. Nhằm minh chứng quan điểm thượng tôn Giêrusalem, tác giả đã đánh bóng khuôn mặt của Ðavít coi ông người đã thiết lập toàn bộ nền phụng tự đền thờ như đang diễn ra ở thời ông. Etra Nơkhemia hai vị lãnh đạo đã khôi phục Giêrusalem, đền thờ, luật Mose, việc phụng tự sự trung thành với nòi giống.

 a. Sách Étra (Ezra) – Nơkhemia (Nehemiah)

 Trong sách thánh hiện nay, bản Hípri cũng như các bản dịch, đều thấy sách Étra và sách Nơkhemia như hai sách riêng biệt đứng liền nhau. Nhưng trong những quy điển xưa nhất thì hai sách này thành một với tên là sách Étra.

Nếu đọc Étra – Nơkhemia như một tác phẩm duy nhất theo truyền thống văn bản ban đầu, chúng ta dễ dàng nhận ra bốn phần của một công trình khôi phục: 1. Er 1-6: khôi phục Đền Thờ; 2. Er 7-10: khôi phục cộng đoàn phụng tự; 3. Nkm 1-7: khôi phục tường thành Giêrusalem; 4. Nkm 8-13: khôi phục cộng đoàn theo Lề Luật.

 

b. Tôbia (Tobit), Judith và Esther

 Bản Phổ thông Latinh xếp ba cuốn sách này liền sau các sách Lịch Sử, một số thủ bản Hy Lạp cũng xếp như thế, một số thủ bản Hy Lạp khác lại xếp sau các sách Khôn Ngoan. Bản văn của ba cuốn này có nhiều dị biệt theo các truyền thống khác nhau và được nhận vào quy điển khá trễ. Thể văn của ba cuốn này cũng đặc biệt. Các yếu tố lịch sử và địa dư đều rất phóng khoáng đến độ không thể ráp nối với thực tế. Có thể nói đây là ba cuốn tiểu thuyết đạo đức, ra đời ở thế kỷ II TCN.

Sách Tôbia nhằm đề cao đời sống đạo đức của những người sống xa Ðất Hứa. Chỉ cần trung thành giữ luật Chúa, cầu nguyện và làm việc lành phúc đức là đẹp lòng Chúa và được chúc phúc.

Sách Judith và Esther ca ngợi quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể dùng những phụ nữ yếu đuối như thế để cứu cả dân Do Thái, khi họ đặt hết niềm tin vào Người. Hai sách này xuất hiện trong bối cảnh cuộc nổi dậy của anh em Macabê.

 c. Sách Macabê 1, 2 (Maccabees)

 Hai cuốn sách lịch sử cuối cùng của Cựu ước, không có trong quy điển của người Do Thái, nhưng được nhận vào quy điển của Công Giáo.

Cuốn thứ nhất viết vào khoảng năm 100 TCN, kể về giai đoạn lịch sử từ vua Antiôkhô Êpiphanê lên ngôi (175 TCN) đến vua Gioan Hiếccanô (134 TCN): các mưu đồ của vua Hy Lạp nhằm tiêu diệt đạo Do Thái và cuộc kháng chiến thành công của anh em Macabê. Chủ đích là chống lại phong trào chạy theo văn hóa Hy Lạp và đề cao sự trung thành với lề luật và đền thờ. Tác giả có vẻ muốn biện minh cho dòng họ Macabê lúc đó đang bị chỉ trích vì những liên minh chính trị và việc tiếm đoạt chức tư tế.

Sách Macabê 2 không phải là phần tiếp theo của Macabê 1, nhưng được soạn trước, khoảng năm 124 TCN. Macabê 2 kể về giai đoạn từ vua Xêlêucô IV (trước vua Antiôkhô) đến cái chết của tướng Nicano.

Sách Macabê 1 quan trọng vì cung cấp những khẳng định rõ ràng về sự phục sinh, về sự thưởng phạt đời sau, về việc cầu nguyện cho người chết, về công trạng của các vị tử đạo, sự chuyển cầu của các thánh. Những điều này sẽ được Tân ước xác nhận.

4. Các sách Ngôn Sứ

 Gồm 18 cuốn: Isaia, Giêrêmia, Aica, Barúc, Êdêkien, Đanien, Hôsê, Giôen, Amốt, Ôvađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria, Malakhi.

Ngôn sứ là những người được Thiên Chúa kêu gọi để nói lời Thiên Chúa và nói thay cho Thiên Chúa. Các ngài không chỉ loan báo sứ điệp bằng lời mà còn bằng cả đời sống. Vì nói lời chân thật, nên các ngài bị người đời đánh đập, sỉ nhục, bị tù đày và giết chết.

Các sách Ngôn Sứ là lời kêu gọi liên lỉ dân Israel trở về với Thiên Chúa và sửa đổi cuộc sống, đồng thời loan báo ngày Thiên Chúa ban Đấng Cứu Độ cho nhân loại.

 a. Isaia

  cuốn lớn thứ nhất. Sách này gồm ba phần thuộc ba thời kỳ khác nhau:

1. 1-39 gọi Isaia đệ nhất, vị ngôn sứ rao giảngxứ Giuđa vào thế kỷ VIII TCN. Một vài chương của thời kỳ sau được chen vào đây (24-27 và 34-35).

2. 40-55 gọi sách An Ủi, tức Isaia đệ nhị. Công trình của một ngôn sứ thời lưu đày, loan báo niềm hy vọng cứu độ sứ mạng mới của dân Chúa.

3. 56-66 gọi Isaia đệ tam, có lẽ một bộ sưu tập lời rao giảng của nhiều vị ngôn sứ trong thời kỳ từ lúc xây xong đền thờ mới (515 TCN) cho đến 445 TCN. Khi Nơkhemia hoàn tất việc trùng tu tường thành, dân chúng chán nản thấy đền thờ mới quá khiêm tốn, đời sống kinh tế chẳng khá , đời sống đạo đức cũng chẳng hơn xưa: vẫn đầy áp bức bóc lột, thối nát. Các ngôn sứ củng cố niềm tin của cộng đồng Do Thái hồi hương.

b. Giêrêmia (Jeremiah)

 Chép lời rao giảng tiểu sử của Giêrêmia, vị ngôn sứ hoạt động một thế kỷ sau Isaia đệ nhất, vào thời kỳ xứ Giuđa sắp bị diệt vong. Ông đã phải chứng kiến cảnh Giêrusalem thất thủ, vua, quan, tế dân bị lưu đày sang Babylon. Cuộc đời lời rao giảng của ông mang trọn nỗi bi đát của thời đại.

 c. Ai Ca (Lamentations)

 Sách thánh bằng tiếng Hípri xếp Ai Ca vào bộnăm cuốnđể đọc vào các dịp lễ lớn: sách Ai Ca dành cho ngày kỷ niệm đền thờ bị phá hủy (ngày chín tháng Áp). Bản Hy Lạp Latinh đặt sau sách Giêrêmia với tựa đề gán quyền tác giả cho ngôn sứ Giêrêmia. Nhưng phân tích văn chương tưởng cho thấy không thể tác phẩm của vị ngôn sứ này. Tác phẩm gồm ba bài theo thểđiếu tang” (chương 1, 2 và 4), một bài than khóc nhân (chương 3) và một bài than khóc tập thể (chương 5: bản Latinh đề Lời cầu xin của Giêrêmia”). Ðây những lời than khóc cho cảnh hoang tàn và bi đát của thành Giêrusalem dân sau biến cố thảm khốc năm 587 TCN. Chính lòng trông cậy kiên vững vào Thiên Chúa trong nỗi đau tuyệt vọng của con người làm nên giá trị bất hủ của những bản ai ca này. Hội thánh đọc sách này trong tuần thánh để nhớ biến cố bi đát trên núi Sọ.

 d. Barúc (Baruch)

 Sách này không trong bản Hípri, chỉ trong bản Hy Lạp (đặt sau sách Giêrêmia) trong phụng tự Latinh (đặt sau Ai ca). Sách được mạo xưng của Barúc, người thư của ngôn sứ Giêrêmia. Thực ra, đây công trình biên soạn hay sưu tập của một tác giảthế kỷ II TCN (có người cho thế kỷ I TCN) với một nội dung phức hợp. Phụng tự Latinh gắnthư của Giêrêmia vào cuối sách Barúc, còn bản Hy Lạp tách riêng, đặt sau sách Ai ca. Sách nhỏ này cho chúng ta biết về đời sống tôn giáo của người Do Tháicác cộng đồng hải ngoại ảnh hưởng mạnh mẽ của ngôn sứ Giêrêmia đối với dân Do Thái sau biến cố năm 587 TCN.

 e. Êdêkien (Ezekiel)

 Chép lời rao giảng cuộc sống của Êdêkien, vị ngôn sứ của thời lưu đày. Ông thuộc hàng tế bị phát lưu ngay đợt đầu (597 TCN). Từ Babylon, ông theo dõi giải thích những đang xảy ra tại Giêrusalem. Sau khi Giêrusalem thất thủ, một đám dân lưu đày mới được dẫn về Babylon. Hoạt động rao giảng của ông nhằm giúp những người lưu đày hiểu biết về hiện tại của mình giữ vững niềm hy vọngtương lai.

 f. Daniel

 Thực chất một cuốn sách thuộc thể loạikhải huyền”, mạo xưng của một nhân vật thời lưu đày. Sách được viết vào thời kỳ Antiôkhô Êpiphanê bách hại (167-164), trước khi cuộc nổi dậy của anh em Macabê thành công. Mục đích nhằm an ủi, khích lệ dân Chúa giữ vững niềm tin trong cơn thử thách.

 g. Hôsê (Hosea)

 Chép lời rao giảng của một ngôn sứ đồng thời với Amốt tại phía bắc. Bản văn tiếng Hípri của sách này một trong những bản văn được lưu truyền tồi nhất trong Cựu ước. Cuộc đời lời rao giảng của Hôsê vừa bi đát vừa trữ tình. Ông sống nỗi bi đát của tình vợ chồng bị phản bội để làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa bị phản bội. Trào lưu đệ nhị luật các ngôn sứ Giêrêmia, Êdêkien, Isaia đệ nhị chịu ảnh hưởng của ông rất nhiều trong cách nói về tình yêu Thiên Chúa và Giao ước mới vớiluật khắc trong tim”.

 h. Giôen (Joel)

  sách được biên soạn vào khoảng năm 400 TCN. Hai chương đầu tả tai họa công bố lời hứa giải thoát. Hai chương sau theo thể loại khải huyền, loan báo cuộc phán xét kỷ nguyên mới. Lời hứa tuôn đổ Thần Khí được sách Công vụ trích dẫn ứng dụng vào biến cố ngày lễ Ngũ Tuần (2,16-21).

 i. Amốt (Amos)

 Vị ngôn sứ này rao giảngvương quốc phía bắc vào thời Giarópam II (783-743). Là một nông dân thuần túy nên lời lẽ của ông thường đơn nhưng rất mạnh mẽ.

 k. Ôvađia (Obadiah)

  sách ngắn nhất của Cựu ước nhưng lại nhiều vấn đề phức tạp. Các nhà nghiên cứu chưa xác định nổi thời đại: các ý kiến đi từ thế kỷ IX TCN tới thời kỳ đế quốc Hy Lạp. Sách phản ánh một chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đề cao sự công thẳng khủng khiếp quyền năng của Thiên Chúa Ðấng bênh vực công .

l. Giôna (Jonah)

  một dụ ngôn dài khoác lên vai một nhân vật được nói đến ở 2V 14,25. Sách được viết vào thế kỷ V. Câu chuyện đầy châm biếm nhằm phản bác quan điểm dân tộc cực đoan, cục bộ rao giảng một quan niệm phổ quát về ơn cứu độ.

 m. Mikha (Micah)

 Sách này chép lời rao giảng của ngôn sứ Mikha người vùng Môrêsét (gần Khéprôn). Ðừng lộn tên vị ngôn sứ này với ông Mikha con ông Gimla thời vua Akháp (x. 1V 22). Ông rao giảngvương quốc phía nam, từ khi vương quốc phía bắc bị diệt (721) đến cuộc xâm lăng của Xankhêríp (701). Ông cũng nông dân thuần túy nên lời văn mộc mạc mạnh mẽ giống Amốt.

 n. Nahum

 Ngôn sứ này hoạt động ở Giuđa vào thời kỳ đế quốc Átsua đang đến hồi suy tàn thủ đô Ninivê sắp thất thủ (612). Ông kết tội vua xứ Átsua kẻ xâm lược áp bức và loan báo ơn cứu độ cho Giuđa.

 o. Khabacúc (Habakkuk)

 Rao giảng cùng thời với Giêrêmia, trong khi xứ Giuđa bị dân Canđê đe dọa. Ông chất vấn Chúa Chúa để cho một dân hung ác đe dọa dân Chúa và chư dân, được Chúa trả lời: “Người công chính sẽ được sống nhờ lòng trung tín”. Rồi ông nguyền rủa kẻ áp bức người khác cuối cùng ca tụng quyền năng Thiên Chúa.

 p. Xôphônia (Zephaniah)

 Ngôn sứ này hoạt động ở phía nam thời ấu vương Giôsia (640-630), trước cuộc phục hưng tôn giáo vua này sẽ phát động. Tân ước trích dẫn sách này một lần (Mt 13,41). Cách ông tảNgày của Ðức Chúaảnh hưởng tới ngôn sứ Giôen bài ca “Dies iraethời trung cổ.

 q. Khácgai (Haggai)

 Rao giảng sau thời lưu đày. Ông cổ việc xây lại đền thờ.

r. Dacaria (Zechariah)

 Sách này gồm hai phần thuộc hai thời kỳ khác nhau:

1. 1-8 thuộc thời kỳ tái thiết phục hưng, cổ việc khôi phục đạo đức;

2. 9-14 thuộc thời kỳ cuối thế kỷ IV TCN, lúc đế quốc Hy Lạp mới bành trướng. người còn chia phần này làm hai: 9-11 và 12-14. Tầm quan trọng của phần 9-14 là do giáo huấn về Ðấng Mêsia, được Chúa Giêsu các sách Tân ước trích dẫn nhiều.

 s. Malachi

 Rao giảng sau khi đền thờ được xây lại năm 515, kêu gọi hàng tế dân thanh tẩy mọi tội lỗi để thờ phượng Chúa cho phải đạo.

 5. Các sách Giáo Huấn

 Gồm 7 cuốn: Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan và Huấn Ca.

Các sách Giáo Huấn là một tập sách về kinh nghiệm sống của các bậc thánh hiền, dạy những lẽ khôn ngoan về cách đối nhân xử thế sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa và hòa hợp với đồng loại trong mọi hoàn cảnh thăng trầm của cuộc sống. Đặc biệt, sách Thánh Vịnh là một bộ sưu tập 150 bài thơ, là những lời chúc tụng, tạ ơn, cầu xin và than thở của dân Chúa. Thánh vịnh là lời Thiên Chúa dạy dân Chúa cầu nguyện.

 a.     Sách Gióp (Jo

một vở kịch bằng thơ, lẽ xây dựng trên một cốt truyện trước bằng văn xuôi. Chủ đề vấn đề đau khổ. Tác phẩm phản kháng quan niệm cổ điển về thưởng phạt, nhưng chưa đưa ra một giải đáp cụ thể, chỉ đặt người ta đối diện với mầu nhiệm của quyền năng Thiên Chúa đưa đến thái độ im lặng tôn thờ.

b.     Sách Thánh Vịnh (Psalms)

bộ sưu tập thánh ca gồm những bài ca vịnh được sáng tácnhiều thời đại khác nhau, từ thời vua Ðavít đến thế kỷ III TCN. Trước thời lưu đày đã những bộ sưu tập các thánh vịnh để dùng trong phụng vụ ở đền thờ. Sau lưu đày, các bộ sưu tập này lại thêm những tác phẩm mới để dùng trong đền thờ mới. Ðây kho tàng kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu ước cũng như trong Tân ước. Mọi tình huống, mọi tâm tình của con người được diễn tả, bộc bạch trước mặt Thiên Chúa với lòng đơn , dạn dĩ, tin tưởng: cảm tạ, ngợi khen, thống hối, ai oán, than van, vui, buồn, chất vấn Thiên Chúa để cho Thiên Chúa chất vấn, khẩn cầu. Hội thánh Công giáo sử dụng các thánh vịnh trong các giờ kinh phụng vụ phụng vụ lời Chúa. thể xếp theo thể loại: tụng ca, vương triều, khẩn cầu, tạ ơn, hành hương, giáo huấn.

c.     Sách Châm Ngôn (Proverbs)

Gồm nhiều bộ sưu tập châm ngôn: 10-22,16 và 25-29 (châm ngôn của Salômôn); 22,17-24,22 (lời của những người khôn ngoan); 30,1-14 (lời của Agua); 30,15-33 (châm ngôn theo con số); 31,1-9 (lời của Lơmuên). Chín chương đầu phần dẫn nhập: cha dạy con (1-7) và chính sự khôn ngoan lên tiếng (8-9). Cuốn sách như hiện nay có từ thế kỷ V TCN. Cuốn sách được hình thành qua nhiều thế kỷ, nên cần lưu ý đến sự phát triển về tưởng.

d. Sách Giảng Viên (Ecclesiastes)

 Ðược biên soạnthế kỷ III TCN, nhưng mạo xưng của vua Salômôn. Tác giả suy khắc khoải về ý nghĩa cuộc sống: tất cả phù vân. Vậy thì sống để làm gì? Sau cuộc sống này còn tồn tại? Phản kháng những quan niệm về thưởng phạt (như sách Gióp), nhưng cũng không đưa ra được giải đáp nào hơn sự khiêm tốn vâng phục Thiên Chúa tinh thầnthoát tục”. Nỗi khắc khoải này Chúa Giêsu sẽ trả lời dứt khoát.

 e. Sách Diễm Ca (Song of Songs)

 Ðược soạn vào thời sau lưu đày (thế kỷ V-IV TCN). Sách gồm năm bài tình ca diễn tả mối tình giữa Chàng Nàng. Người Do Thái vẫn coi đây bài ca tuyệt vời diễn tả mối tình tuyệt vời giữa Thiên Chúa dân được tuyển chọn. Hội thánh hiểu về mối tình giữa Chúa Kitô Hội thánh; các giáo phụ, các nhà thần hiểu về mối tình giữa Chúa Kitô mỗi tâm hồn.

 f. Sách Khôn Ngoan (Wisdom)

 Ðược biên soạnthế kỷ thứ I TCN, nhưng mạo xưng của vua Salômôn. Tác giả sống trong môi trường văn hóa Hy Lạp ở Alêxanria bên Ai Cập. Cuốn sách muốn chống lại sức cuốn hút của văn hóa Hy Lạp đang làm cho nhiều người Do Thái bị lung lạc bằng cách đề cao sự khôn ngoan của Thiên Chúa bộc lộ trong số phận của mỗi con người trong lịch sử dân Chúa.

 g. Sách Huấn Ca (Sirach)

 Do Ben Xira viết bằng tiếng Hípri vào khoảng 190-180 TCN tại đất Do Thái, rồi cháu nội của ông dịch ra tiếng Hy Lạp khoảng năm 132 TCN tại Ai Cập. Cuốn sách gồm một bộ sưu tập những lời khôn ngoan về rất nhiều đề tài (1-42); chiêm ngắm vinh quang của Thiên Chúa trong thiên nhiên (2-43) và trong lịch sử Israel (44-50); bài ca tán tạ (51,1-12); ca tụng việc tìm kiếm sự khôn ngoan (51,13-30).

 

III. Giá trị của các sách Cựu ước

Các sách Cựu ước không chỉ là sách thánh của dân Israel, nhưng còn là sách thánh của người Kitô giáo, vì là sách ghi lời Thiên Chúa. Nội dung của Cựu ước mang nhiều chi tiết tiên báo cho những sự việc sẽ diễn ra và được làm sáng tỏ trong Tân ước. 

Thánh Phaolô nói: “Mọi lời xưa đã chép trong thánh kinh đều để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta thêm kiên nhẫn và an ủi chúng ta, nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15, 4).

 

CÁC SÁCH TÂN ƯỚC

 

I. Giới thiệu tổng quát

 1. Nội dung

 Trong toàn bộ kinh thánh, các sách Tân ước, đặc biệt là các sách Tin mừng chiếm một địa vị quan trọng hơn cả. Tân ước cho chúng ta biết Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ nhân loại như thế nào nơi Đức Giêsu. Tân ước còn cho ta biết về hội thánh: những bước khởi đầu, sự phát triển kỳ diệu và sự kết thúc đầy vinh quang trong tương lai.

 2. Tác giả

 Do các tông đồ và các cộng sự viên của các ngài viết ra. Các sách đều được viết bằng tiếng Hy lạp và được hình thành trong nửa sau thế kỷ thứ nhất từ năm 50-100.

3. Gồm có

 – Bốn sách Tin mừng do thánh Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan biên soạn.

– Sách Công Vụ Tông Đồ do thánh Luca biên soạn.

– 14 thư của thánh Phaolô gửi cho các giáo đoàn và các cá nhân

– 7 thư chung: thư của thánh Giacôbê, thánh Phêrô (2), thánh Gioan (3), thánh Giuđa.

– Sách Khải Huyền.

  

II. Các sách Tin mừng

 1. Tin mừng là gì?

 Trong các sách Tân ước, hạn từ “Tin Mừng” dùng để chỉ lời của Đức Giêsu rao giảng về nước trời và cũng chỉ lời của các tông đồ rao giảng về Đức Giêsu đã chết và phục sinh.

Về sau, hạn từ “Tin Mừng” được dùng để chỉ bốn tác phẩm đầu tiên của tập sách Tân ước nhằm loan báo Tin mừng vĩ đại cho cả nhân loại là Con Một Thiên Chúa nhập thể làm người và ở giữa chúng ta để cứu độ chúng ta.

Tóm lại, hạn từ “Tin Mừng” có hai nghĩa: vừa là lời loan báo ơn cứu độ, vừa chỉ các tập sách chép lại lời loan báo đó.

 2. Nội dung

 Bốn sách Tin mừng cho biết về cuộc đời và các lời giáo huấn của Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa đã làm người để cứu độ chúng ta, để cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa và để trở nên khuôn mẫu cho chúng ta noi theo, mà sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa và là anh chị em của nhau.

Các sách Tin mừng không phải là một tập sách do các phóng viên ghi chép lại từng lời, từng việc làm của Đức Giêsu, nhưng là một tập sách được viết ra do cả một tập thể lãnh nhận, chia sẻ, suy niệm rồi mới biên soạn thành sách, với sự hiểu biết sâu xa về những điều mà họ biết và sống với Đức Giêsu.

Tân ước cũng cho chúng ta biết sự hình thành và phát triển bước đầu của giáo hội Công giáo và những sự kiện được tiên báo về thời kỳ cuối cùng tới ngày Chúa quang lâm.

 3. Các sách Tin Mừng Nhất Lãm

 Tin Mừng theo thánh Mátthêu, thánh Máccô và thánh Luca có rất nhiều điểm giống nhau, như các trình thuật về các phép lạ, các lời giảng của Đức Giêsu, . . . nên được gọi là Tin mừng Nhất Lãm.

 a. Tin Mừng theo thánh Mátthêu

 Trước khi theo Đức Giêsu, thánh Mátthêu có tên là Lêvi. Ông làm nghề thu thuế. Ông viết Tin mừng nhằm củng cố niềm tin của các Kitô hữu gốc Do Thái. Ông dùng Cựu ước để minh chứng rằng Đức Giêsu Nazareth đích thực là Đấng Mêsia – Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Do Thái qua lời các ngôn sứ.

 b. Tin mừng theo thánh Máccô

 Thánh Máccô là môn đệ của thánh Phêrô, là bạn đồng hành với thánh Phaolô trên đường truyền giáo. Ông viết cuốn Tin mừng này tại Rôma cho các Kitô hữu tại đây, nhằm minh chứng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Dưới con mắt người đời, Đức Giêsu đã thất bại vì bị người ta chống đối và giết chết, nhưng thái độ đó xứng đáng với thiên chức của Người là Đấng Cứu Thế.

 c. Tin mừng theo thánh Luca

 Thánh Luca là một y sĩ có tâm hồn nhạy cảm. Ông là bạn tâm phúc của thánh Phaolô trên đường truyền giáo. Ông viết cuốn Tin mừng này cho các Kitô hữu người Hy lạp, La mã, để rao giảng lòng nhân từ của Đức Kitô với người tội lỗi, người cùng khổ.

 4. Tin mừng theo thánh Gioan

 Thánh Gioan là người “môn đệ Chúa yêu”, đã được sống trực tiếp với Đức Giêsu. Ông viết Tin mừng để chúng ta tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, và nhờ tin vào Người mà chúng ta được sống đời đời.

 

 III. Sách Công Vụ Tông Đồ

 Sách Công Vụ Tông Đồ là tác phẩm thứ hai của thánh Luca

 1. Nội dung

 Tóm lược những trang sử đầu tiên của hội thánh, từ khi còn là “hạt cải”, cho đến khi thành cây to cho chim trời đến nương náu.

 2. Sách được chia làm hai phần

 – Phần I (từ 1,12–15,35): tường thuật những sinh hoạt đầu tiên của hội thánh, và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, hội thánh lớn lên ngay giữa những chướng ngại của những người thù ghét và chống đối, cũng kể lại những lời rao giảng Tin mừng của thánh Phêrô tại Giêrusalem, xứ Giuđêa và Syria.

– Phần II (từ 15,35–28,31): Tập trung vào hành trình truyền giáo của thánh Phaolô, nhờ đó Tin mừng được loan báo cho thế giới dân ngoại và hội thánh lan rộng khắp nơi.

  

IV. Các thư của thánh Phaolô

 1. Tóm lược cuộc đời thánh Phaolô

Dựa vào Sách Công Vụ Tông đồ và các thư của thánh nhân, chúng ta có một bản tóm tắt về cuộc đời của thánh nhân như sau:

– Khoảng năm 10 SCN: sinh tại Tarsô xứ Kilikia, trong một gia đình Do Thái, thuộc chi tộc Benjamin, đồng thời là công dân Rôma. Đến Giêrusalem rất sớm, theo học với ông Gamalien thuộc phái Pharisêu. Vì vậy, sau này người kịch liệt ngược đãi hội thánh mới hình thành.

– Khoảng năm 30 SCN: Đức Giêsu chết và phục sinh.

– Khoảng năm 36: thánh Stephanô tử đạo. Phaolô có tham gia vụ án này.

– Cũng năm 36: Trên đường Damas, Đức Giêsu hiện ra và trao cho người sứ mạng làm tông đồ dân ngoại. Ngay sau đó, người bắt đầu công việc rao giảng Đức Giêsu Kitô.

– Năm 39: Lên Giêrusalem gặp các tông đồ lần đầu tiên, trở về Xyria, Kilikia, rồi sau đó qua Antiokia với thánh Barnaba.

– Năm 45–49: Chuyến đi truyền giáo đầu tiên: Sýp, Pamphilia, Pixidia và Lycaonia. Ở đây người bắt đầu được gọi là Phaolô (tên Latinh), về sau tên này thường được dùng hơn là Saolo (tên gốc Do Thái).

– Năm 49: Dự Công Đồng Giêrusalem. Tại đây, có lẽ nhờ ảnh huởng của người, các tông đồ quyết định không buộc người Kitô hữu gốc ngoại phải giữ luật Do Thái; đồng thời các ngài cũng công nhận Phaolô làm tông đồ dân ngoại.

– Từ năm 50–52: Chuyến truyền giáo thứ hai: người lưu lại Côrintô hơn 18 tháng, viết hai thư 1 và 2 Thessalônica (50-51).

– Từ năm 53–58: Chuyến đi truyền giáo thứ ba: hơn hai năm ở Êphêxô; viết thư Philiphê (56-57), thư thứ nhất Côrintô (Vượt Qua 57); một năm tại Maceđônia; viết thư thứ hai Côrintô (mùa thu 57), và có lẽ thư Galat cũng được viết tại Maceđônia. Hai năm tại Côrintô, viết thư Rôma (mùa đông 57-58).

– Năm 58: bị bắt tại Giêrusalem.

– Năm 58-60: bị giam tại Xêdarê Palestine.

– Mùa thu 60: bị giải về Rôma và giam tại đó. Viết các thư Côlôxê, Êphêsô và Philemon.

– Năm 63: được miễn tố và trả tự do.

– Năm 63-66: Các năm hoạt động cuối cùng. Viết các thư Titô và thứ nhất Timôtê.

– Năm 66: bị bắt giam tại Rôma lần thứ hai, viết thư thứ 2 Timôtê.

– Năm 67: tử đạo tại Rôma, dưới thời Nêrô.

 

2. Phân loại các thư của thánh Phaolô

 Người ta cho rằng thánh Phaolô là tác giả của 14 bức thư gởi cho các giáo đoàn. [Tuy nhiên, thư Do Thái chưa hẳn là do người viết]. Trong Tân ước, các thư này không được sắp xếp theo trật tự thời gian. Việc sắp xếp các thư này căn cứ theo sự dài ngắn hoặc mức quan trọng về thần học. Do đó, ngoại trừ thư Do Thái được coi như không phải là của thánh Phaolô, các thư còn lại có thể chia làm ba loại:

– Các thư “lớn”: Galát, 1 và 2 Côrintô, Roma, 1 và 2 Thexalônica. Nội dung: Ơn công chính hóa, về ngày Quang Lâm của Đức Giêsu, các vấn đề mà cuộc sống hằng ngày đặt ra cho các tân tòng và các hội thánh mới được thành lập.

– Các thư viết trong tù: Côlôsê, Philipê, Ephêsô, Philêmon. Vấn đề nổi bật: vai trò của Đức Kitô trong vũ trụ và lịch sử. Ngoài ra, trong các thư đó, tác giả lo âu trước những tư tưởng của thuyết khắc kỷ sai lầm, khiến người phải cố vạch ra một lối sống Kitô giáo toàn diện.

-Các thư mục vụ: 1 và 2 Timôtê và Titô. Cả ba thư này cho thấy thánh Phaolô rất bận tâm với các cộng đoàn đang sống giữa những trào lưu tiền ngộ đạo. Vì thế, và đồng thời cũng linh cảm “cuộc ra đi” của mình đã gần kề, nên ngài đã chỉ ra những nguyên tắc lãnh đạo cộng đoàn cho hai môn đệ Timôtê và Titô.

 

3. Những điểm chính yếu trong các thư của Phaolô

 – Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và là Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người.

– Hội thánh là thân thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô, được xây dựng trên lời rao giảng Tin mừng, gồm có Do Thái và dân ngoại trong bình đẳng và tự do của con cái Chúa.

– Công cuộc cứu chuộc được liên kết với mầu nhiệm Ba Ngôi, sáng kiến của Thiên Chúa Cha, được thực hiện bởi Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

 

4. Nội dụng các thư của thánh Phaolô

 a. Thư gửi tín hữu Rôma

 Thư được viết sau chuyến hành trình truyền giáo lần III, khoảng mùa xuân 57 hoặc 58, khi người đang ở Côrintô. Phaolô đã gửi thư này cho các tin hữu ở Rôma (Kitô hữu gốc Do Thái và gốc Rôma).

Thư gồm 16 chương, được chia thành ba phần chính:

– Phần 1 (ch. 1-8): Trình bày trọng tâm lời rao giảng là Tin mừng về sự công chính hóa của Thiên Chúa ban, đặt nền tảng trên lòng tin vào Đức Kitô (Phép rửa: ơn công chính và Đức Tin, luật dạy).

– Phần 2 (ch. 9-11): Bàn về vấn đề nan giải của các tín hữu gốc Do Thái. Dân Do Thái đã được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước, tại sao nay đã đến thời Thiên Chúa thực hiện giao ước thì họ lại không tin (Do Thái hay không Do Thái đều mắc tội. Vậy để được cứu độ, họ phải chết đi với Đức Kitô [qua phép rửa] để được sống lại).

– Phần 3 (ch. 12-15): Nói về những chỉ dẫn thực tế cho đời sống đạo của cộng đoàn.

 

b. Thư thứ I gửi tín hữu Côrintô

 Thánh Phaolô lập giáo đoàn này trong chuyến truyền giáo lần thứ 2, khi lưu lại đây một năm rưỡi (Cv 18, 11). Công đoàn này gặp nhiều khó khăn trong vấn đề sống đạo do tiếp xúc với các luồng tư tưởng, triết học, văn hóa và tôn giáo khác nhau; vì, Côrintô là một thành phố, trung tâm văn hóa Hy lạp.

Thư được viết và gửi khoảng năm 55 hoặc 56, khi thánh Phaolô đang ở Êphêsô. Nội dung bức thư nhằm giải quyết những chuyện không hay đang xảy ra trong giáo đoàn: chia phe cánh, kiện tụng nhau ở tòa án đời, vô luân và lạm dụng các cuộc họp “bẻ bánh”. Ngoài ra, thánh nhân cũng trả lời một vài thắc mắc của giáo đoàn như: vấn đề khiết tịnh và hôn nhân, ăn thịt cúng, đoàn sủng.

Thư gồm có 16 chương, chia thành ba phần chính: - Phần 1 (ch. 1-6): giải quyết sự chia rẽ và gương xấu. - Phần 2 (ch. 7-14): giải quyết những thắc mắc liên quan đến đời sống đạo. - Phần 3 (ch. 15): vấn đề kẻ chết sống lại.


c. Thư thứ II gửi tín hữu Côrintô

 Thư được viết khoảng năm 56 hoặc 57, trong lúc đời sống đạo của công đoàn đang sa sút. (Một người trong cộng đoàn nhục mạ vai trò tông đồ của thánh nhân và lôi kéo nhiều người đi theo phái ngộ đạo). Cả những tín hữu gốc Do Thái cũng chống đối người. Nội dung của bức thư là một lời thổ lộ tâm tình: vai trò nặng nề của vị tông đồ, những khó khăn, hiểu lầm. Thánh nhân nhận thấy mình yếu đuối, cần có sự giúp sức của ơn Chúa.

Thư gồm có 13 chương, chia thành ba phần:

– Phần 1 (ch. 1-7): biện hộ cho thái độ của mình.

– Phần 2 (ch. 8-9): nói đến việc quyên góp giúp tín hữu ở Giêrusalem.

– Phần 3 (ch. 10-13): kể về công việc truyền giáo đang thực hiện nhằm biện hộ cho tác vụ tông đồ của ngài.

 

d. Thư gửi tín hữu Galát

 Galát là một miền liên tỉnh thuộc phía bắc Tiểu Á, tức Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.

Trong hành trình truyền giáo lần thứ ba, khi đi ngang qua miền Macêdônia, thánh nhân đã gởi thư này cho giáo đoàn này. Lý do, khoảng năm 54-56, một số người mang theo một tin mừng sai lạc đến Galát, khiến cho giáo đoàn này gặp cơn khủng hoảng.

Thư này gồm có 6 chương, trình bày:

– Tin mừng đó bởi đâu? Do thánh Phaolô nhận trực tiếp từ Đức Kitô, Đấng đã gọi người trong biến cố Damas.

– Tin mừng đó là gì? Đức Giêsu Kitô là Đấng mà lịch sử Israel đã báo trước. Người là nguồn cứu độ độc nhất cho những kẻ tin, chứ không phải lề luật Cựu ước và việc cắt bì.

– Tin mừng đó đem lại những gì cho kẻ tin? Đem lại sự tự do, sự sống mới nhờ Thánh Thần, trong Đức Kitô. Muốn hưởng được đời sống này, người tín hữu phải trải qua thập giá.

 

e. Thư gửi tín hữu Êphêsô

 Êphêsô là thành phố cửa biển phía nam Tiểu Á, thuộc Thổ nhĩ Kỳ ngày nay. Giáo đoàn đuợc thành lập vào đầu cuộc hành trình truyền giáo lần thứ 3.

Khoảng năm 62-63, khi người đang ở trong tù, giáo đoàn Êphêsô trải qua một thời kỳ khó khăn, thánh nhân đã viết thư này để an ủi họ.

Thư gồm 6 chương với 2 phần chính:

– Phần 1 (ch. 1-3): trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được Đức Kitô thực hiện, nhằm quy tụ một hội thánh bao gồm cả người Do Thái và Dân ngoại. Người tín hữu cần luôn kết hiệp, nên một với Đức Kitô để xây dựng hội thánh duy nhất.

– Phần 2 (ch. 4-6): thánh nhân nhắn nhủ các tín hữu sống cho xứng với ơn Thiên Chúa kêu gọi.

 

f. Thư gửi tín hữu Philipphê

 Philipphê là một trung tâm thương mại. Trong chuyến truyền giáo lần thứ 2, Phaolô cùng với các ông Timôthê, Sila và Luca lập giáo đoàn này. Giáo đoàn này rất quý mến Phaolô.

Thư được viết khoảng năm 62-63 lúc thánh nhân đang bị cầm tù ở Rôma. Nội dung thư là lời cảm ơn các tín hữu đã tận tình giúp đỡ vật chất cho công tác truyền giáo của người.

Thư chỉ có 4 chương. Trong thư, thánh tông đồ bày tỏ tâm sự của mình cho các tín hữu, mặc dù bị tù, nhưng người vẫn vui sướng vì Đức Kitô vẫn được rao giảng. Người cũng nhắc nhở các tín hữu hãy tỉnh thức trước những mầm mống chia rẽ, bất hòa bằng cách nhìn vào gương mẫu khiêm hạ của Đức Kitô.

 

g. Thư gửi tín hữu Côlôsê

 Khoảng năm 61-63, khi đang bị cầm tù ở Rôma, thánh nhân viết thư này cho giáo đoàn Côlôsê nhằm trả lời cho những thắc mắc của ông Êpaphra, người đã lập giáo đoàn này; khi ông hỏi ý kiến thánh nhân về những điều dị đoan, lạc đạo mới xuất hiện.

Thư gồm có 4 chương, chia thành 3 phần:

– Phần 1 (ch. 1, 3–2, 3): Đức Kitô là chủ tể vũ trụ và là đầu của hội thánh.

– Phần 2 (ch. 2, 4–3, 4): nhắn nhủ mọi người hãy đề phòng giáo lý sai lạc.

– Phần 3 (3, 5–4, 6): là những lời khuyên nhủ.

 

h. Thư thứ I gửi tín hữu Thexalônica

Thư này được viết tại Côrintô khoảng năm 50-51.

Thư có 5 chương. Thánh nhân tỏ lời khen ngợi giáo đoàn về những tiến triển tốt đẹp của họ trong cách sống đạo, an ủi họ trong những thử thách. Cũng trong thư này, người đã thanh minh về những lời vu cáo của những người Do Thái. Ngoài ra, người khuyên nhủ họ sống theo những nguyên tắc đã dạy và đưa ra một điểm giáo lý quan trọng về xác loài người sẽ sống lại trong ngày Chúa quang lâm. Do vậy, người Kitô hữu phải chuẩn bị phải sống trong niềm hy vọng trong khi mong chờ Chúa đến.

 

i. Thư thứ II gửi tín hữu Thexalônica

 Thư này được viết khoảng năm 52.

Là một thư ngắn chỉ có 2 chương: nhằm đính chính cho các tín hữu biết rằng: Chúa chưa đến ngay đâu, mọi người cần phải bình tĩnh và chăm chỉ làm việc. Bởi ở nội dung thư thứ nhất, các tín hữu lầm tưởng ngày Chúa đến đã gần lắm, nên âu lo, bỏ bê cả việc bổn phận.

 

k. Thư thứ I gửi cho ông Timôtê

 Timôthê là người vùng Tiểu Á. Trong hành trình thứ nhất, Phaolô đã rửa tội cho hai mẹ con ông. Sau đó ông được thánh nhân chọn làm bạn đồng hành trong cuộc truyền giáo lần thứ II. Giống như Titô, Phaolô trao cho Timôtê lãnh đạo các giáo đoàn vừa thành lập. Mục đích thư thứ 1 và 2 và thư gởi cho Titô là nhằm vào vấn đề mục vụ, tức là đề cập đến những đức tính và bổn phận của người đứng đầu coi sóc cộng đoàn.

 Thư thứ nhất này được viết khoảng năm 65, gồm 6 chương bàn về ba điểm chính:

– Phải coi chừng các lạc thuyết chủ trương thế giới vật chất là xấu xa, kiêng cữ một số thực phẩm và coi thường đời sống hôn nhân.

– Những chỉ dẫn liên quan đến việc thờ phượng, tổ chức cộng đoàn hội thánh và tác phong phải có của người điều khiển cộng đoàn.

– Những lời khuyên môn đệ Timôtê trong trách vụ săn sóc các nhóm tín hữu khác nhau (các bà góa, các nô lệ), hầu trở nên một nguời phục vụ đắc lực cho Đức Kitô.

 

l. Thư thứ II gửi cho ông Timôtê

 Được viết vào khoảng thời gian cuối đời của thánh Phaolô, tức năm 67, trước khi người chịu tử đạo. Nội dung thư này là những lời tâm huyết của người thầy gởi cho đồ đệ, được coi như là di chúc tinh thần.

Thư có 4 chương, là những lời khuyên ông Timôtê phải kiên trì trong thử thách, trung thành rao giảng Tin mừng. Người cũng bày tỏ tình trạng nguy kịch của mình, nhưng vẫn dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.

  

m. Thư gửi cho ông Titô

 Titô là một Kitô hữu gốc dân ngoại [Gl 3, 1-3]. Ông là một trong những người đồng hành với Phaolô và đóng vai trò quan trọng trong việc hòa giải người Côrintô với thánh Phaolô [2Cr 7, 6-16].

 Thư này được viết vào khoảng năm 65 trong cuộc hành trình của thánh Phaolô. Khi ấy, ông Titô đang ở Kêta và được thánh nhân trao nhiệm vụ coi sóc mọi công việc hoạt động và tổ chức hội thánh tại đảo Kêta.

Thư gồm có 3 chương, gồm những lời chỉ dẫn của thánh nhân nhằm giúp ông Titô coi sóc cộng đoàn này, một ít điều về đạo lý chống lại lạc thuyết.

 

n. Thư gởi cho ông Philemon

 Philemon là một người có vai vế ở Côlôsê, nhờ thánh Phaolô, ông đã trở lại đạo. Ông được thánh Phaolô quý mến, gọi là cộng sự viên thân mến.

Đây là thư ngắn nhất, chỉ có 25 câu. Qua thư, thánh Phaolô muốn ông Philemon nhận lại anh Ônêximô, vốn là một người nô lệ của ông Philemon đã bỏ trốn, nay được thánh nhân rửa tội. Người xin ông Philemon coi anh Ônêximô như người anh em trong Đức Kitô. Qua trường hợp này, thánh tông đồ đã giải quyết vấn đề người nô lệ. Trong Đức Kitô, không còn phân biệt nô lệ hay tự do (Gl 3, 28), vì thế mọi người phải thương yêu nhau như anh em.

 

V. Các thư chung

 Trong Tân ước, ngoài 14 thư được coi là của thánh Phaolô, còn có 7 thư chung của các thánh tông đồ khác.

Các thư này được gọi là thư chung, vì không được xác định là gởi cho giáo đoàn hay nhân vật nào riêng biệt.

Các thư chung đó gồm: 01 của thánh Giacôbê; 02 của thánh Phêrô; 03 của thánh Gioan và 01 của thánh Giuda Tadeo.

 

1. Thư của thánh Giacôbê

 Nhấn mạnh vào việc nhận biết và thi hành Thánh ý Thiên Chúa, hai điều này luôn phải đi đôi với nhau. Không thể làm tôi Thiên Chúa mà lòng lại hướng chiều về thế gian.

 

 2. Hai thư của thánh Phêrô

 – Thư thứ I: viết cho hội thánh Tiểu Á đang lâm cơn bách hại, để động viên các tín hữu trung thành với niềm tin của mình, can đảm chấp nhận gian khổ theo gương Đức Giêsu.

– Thư thứ II: khuyến cáo các giáo đoàn phải đề phòng các “thầy dạy giả hiệu” với các lạc thuyết đưa đến diệt vong, Thánh Phêrô khẳng định: các tín hữu được Lời Chúa dạy dỗ qua các ngôn sứ và tông đồ, mà Lời Chúa được ghi chép trong thánh kinh. Chúa sẽ quang lâm, nhưng Chúa đến chậm là để người tội lỗi có cơ hội thống hối.

 

3. Ba thư của thánh Gioan

 Nhằm chống lại các tiến sĩ giả hình tìm cách gieo rắc những học thuyết sai lạc, như không tin nhận Đức Kitô là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa, chối mầu nhiệm Nhập thể, … đã làm xáo trộn trong cộng đoàn. Người khuyên nhủ các tín hữu phải đề phòng ngộ đạo thuyết, và trung thành với đức tin chân chính Kitô giáo, tuân giữa các điều răn, nhất là luật đức ái.

 

4. Thư của thánh Giuđa Tađeo

 Khuyến cáo các tín hữu phải đề phòng, xa tránh ngộ đạo thuyết theo chiều hướng phóng túng về luân lý. Nếu không sám hối và canh tân, thì sẽ lãnh lấy phần phạt tương xứng.

 

VI. Sách Khải Huyền

 Thể văn khải huyền rất được người Do Thái ưa chuộng vào cuối thời Cựu ước. Loại văn này diễn tả tư tưởng bằng cách nêu lên những thị kiến, và dùng ngôn ngữ ám hiệu để nói với độc giả về một điều gì đó. Vì thế, khi đọc sách Khải Huyền, chúng ta không dừng lại ở những hình ảnh, nhưng đi sâu vào ý nghĩa của chúng.

Chẳng hạn, về màu sắc: trắng ám chỉ sự chiến thắng, trong sạch; đỏ ám chỉ sự giết chóc, bạo lực và máu của các vị tử đạo; đen ám chỉ sự chết, sự vô đạo. Về hình ảnh: cái sừng chỉ sức mạnh; tóc bạc chỉ sự vĩnh cửu; áo dài chỉ về phẩm chức tư tế; đai lưng bằng vàng chỉ vương quyền.

Tương truyền, sách Khải Huyền do thánh tông đồ Gioan biên soạn vào cuối thế kỷ thứ I, viết cho hội thánh Tiểu á đang lâm cơn thử thách. Người gửi cho họ một sứ điệp hy vọng: “Đức Kitô sẽ đến”, phần thắng thuộc về Đức Kitô. Nhưng trong thời gian chờ đợi, thì hội thánh vẫn bị bách hại và phải chiến đấu luôn.


Comments

Popular posts from this blog

Phụ tỉnh thánh Vinh Sơn Liêm

Tài liệu học hỏi