Huấn luyện ban phục vụ 4
Ban phục vụ
VẤN ĐỀ
Vào thời đầu Trung Cổ,
ở Châu Âu thương mại và kỹ nghệ phát triển. Đô thị phát triển mạnh, nhiều dân
cư ở nông thôn tuốn về thành phố. Một giai cấp tiểu tư sản hình thành và dân
chúng chỉ nghĩ cách làm ra thật nhiều tiền. Xã hội vốn mang tính cộng đồng đang
bị thay thế bằng xã hội mang tính cá nhân. Thay đổi này kéo theo nhiều thay đổi
khác, đe dọa mọi nếp sống cũ và đây là một thách đố của giáo hội.
Một điều khá thú vị là
cái được gọi là văn hóa “Kitô’ giáo thời đó bị xuống cấp trầm trọng. Giáo hội
rất “co cụm”, hàng giáo sĩ tham lam, dốt nát, song rất giàu có và
đầy quyền lực. Họ chỉ biết đọc tiếng Latinh, không bao giờ giảng giải và chỉ cử
hành các bí tích khi được trả tiền.
Có nhiều cuộc trở lại
đạo Kitô của cả một sắc tộc, cả một quốc gia, nhưng đó chỉ là làm theo lệnh của
một ông vua hay một thủ lãnh nào đó. Thế nên, sức sống mang tinh thần Kitô giáo
rất là ít, mặc dầu mọi người đều xưng là Công giáo. Thậm chí có khi còn mê tín,
vì khi trở lại đạo theo lệnh của các nhà cầm quyền, người dân mang tất cả những
gì mà họ thờ cúng xưa nay đặt lên bàn thờ, ngang hàng với tượng
ảnh của Đức Giêsu và Mẹ Maria
PHONG TRÀO
CANH TÂN
Từ một xã hội xa đọa
như vậy, trong tầng lớp nào cũng có người đòi canh tân. Đầu thế kỷ thứ X, hoàng
đế nước Đức đã cố gắng canh tân lại giáo hội, sau đó là các thày đan sĩ và đến
thế kỷ 12, chính
người giáo dân đòi canh tân.
Điều kiện xã hội thay
đổi, đòi hỏi phải có lòng đạo đức, sự kết hiệp với Chúa sâu xa hơn. Chính
vì thế, những người có thiện chí đã tìm mọi cách đào sâu đức tin của họ trong
hoàn cảnh mới của cuộc sống.
Chẳng hạn, những người
dệt vải đã vừa dệt vừa nghe một người đọc lời Chúa, sau đó họ thảo luận với
nhau và họ thấy rằng những điều Chúa dạy họ có thể làm được, và
đồng thời họ cũng nhận ra các nhà giảng Tin mừng thời đó chỉ nói chứ chẳng làm.
Từ những não trạng đó,
mà nhiều phong trào đòi canh tân nổi lên và đã gây nhiều ảnh hưởng khác nhau.
Có người,
vì vậy,
mà trở nên kết hiệp sâu xa hơn với Chúa, trở nên cảm thông với giáo hội, và
làm mọi cách để giáo hội được thăng tiến. Ngược lại, có người vì đó mà chống
đối giáo hội, cho rằng giáo hội không sống đúng với Tin mừng và họ rời
bỏ giáo hội.
Thường thì các phong
trào canh tân của giáo dân không rõ người sáng lập, không có chương trình, mục
đích nhất định, ngoài việc quay trở về với Tin mừng.
DÒNG SÁM
HỐI
Một trong những phong
trào đó có tên là ‘Dòng Sám Hối’. Dòng
là danh từ
mà các người Trung Cổ đặt cho, để chỉ toàn bộ những
người tham gia phong trào này. Phong trào phát triển rất mạnh và bị giáo hội
chỉ trích rất mạnh. Tuy nhiên, tiếng kêu của họ cũng đã có ảnh hưởng rất lớn
đến hàng giáo phẩm. Đức Gregory VII đứng ra lãnh đạo phong trào canh tân này.
Tuy nhiên, vì chưa làm
quen với thần học, cho nên những lời giảng của họ không đúng với giáo lý và
mang tính dị giáo, nên
họ đã bị Đức Luxiô III cấm giảng giải. Mãi đến 1207, Đức
Innôcentê III mới cho phép họ giảng lại, tuy chỉ giới hạn trong những gì liên
quan đến tu đức,
chứ không được nói tới các tín điều. Trong số họ, có người trở thành linh mục, những người
khác thì tập trung lại sống thành một nhà, người khác lại theo đuổi cuộc sống
tu trì, những người còn lại thì sống theo tinh thần của một dòng. Và dòng Ba
được hình thành từ đây[1]. Được gọi
là dòng Ba,
vì do ảnh hưởng của dòng Phan sinh[2].
Như vậy, gốc gác của dòng
Ba khởi đi từ phong trào canh tân của người giáo dân, phong trào sám hối, phong
trào của những người đạo đức, vì không hài lòng
trước cảnh sa sút của giáo sĩ và tu sĩ, và lối sống đạo hình thức, mê tín của
những “Kitô hữu”,
mà quay trở về với cuộc sống Tin mừng đích thực.
HỘI HÃM
MÌNH ÔNG THÁNH ĐAMINH - DÒNG BA ĐAMINH
Cha thánh Đaminh đã
thành lập một dòng giáo sĩ, theo tu luật thánh Augustin, thành viên của dòng là
các tu sĩ. Nhưng vì mộ mến tinh thần của dòng, đoàn sủng của dòng và vì tinh
thần và đoàn sủng đó rất thích hợp với phong trào canh tân của các giáo dân, nên
nhiều người giáo dân muốn sống tinh thần của dòng: học hỏi Tin mừng, sống tinh
thần tông đồ và nhiệt thành rao giảng lời Chúa bằng cuộc sống nghèo khó.
Từ đó mà có sự tương
tác, phối hợp giữa giáo sĩ Đaminh và giáo dân. Cộng đoàn giáo sĩ nhận được những
hỗ trợ và trợ giúp vật chất từ giáo dân. Còn người giáo dân nhận được sự linh
hướng và cố vấn từ giáo sĩ. Có thể nói, gốc gác dòng Ba Đaminh xuất phát từ sự
“phối hợp” này.
Năm 1285, bề trên tổng
quyền thứ bảy dòng Đaminh, cha Munio de Zamora đã ban hành một bản luật tựa đề
“Tu luật cho những người Sám Hối Đaminh”. Đây là bản luật tạo nên nền
tảng cho dòng Ba Đaminh. Có thể coi, năm 1285 là năm khai sinh chính thức của dòng
Ba Đaminh. Nhưng như chúng ta biết, họ vẫn chẳng được gọi là dòng Ba, cho đến
mãi cuối thế kỷ thứ 13. Nhưng các đạo luật sau đó vẫn gọi là “anh chị em hối
nhân thánh Đaminh.
Tu luật Munio de Zamora
gồm 22 chương. Để gia nhập dòng Hãm mình thánh Đaminh, phải có giấy chứng nhận
sống đời đạo đức, có tiếng tốt, và đức tin truyền thống. Theo tu luật, các ứng sinh
phải có lòng nhiệt thành bảo vệ và truyền bá đức tin của thánh Đaminh. Để được
gia nhập, phải trả hết nợ nần và hòa giải với mọi kẻ thù. Áo dòng gồm áo dài
trắng và áo khoác đen vải thường[3].
Đa số phải được hội
đồng dòng Ba chấp thuận mới trở thành thỉnh sinh. Một khi được chấp nhận, họ
không thể bỏ sang dòng Ba khác hay trở về “nếp sống trần tục”. Nghi lễ khấn
đích thực là một nghi thức nhập dòng theo giáo luật.
Thành viên dòng Ba buộc
phải nguyện kinh phụng vụ, càng nhiều càng tốt. Các ngày Chúa nhật và ngày lễ
từ 1-11
đến phục sinh, các hội viên dòng Ba buộc phải nguyện kinh tối, kinh sáng lúc 2
giờ sáng. Các ngày thứ sáu và trước các ngày lễ chính phải ăn chay; phải kiêng
thịt trừ ngày Chúa nhật, thứ ba và thứ năm; không được tham dự các
tiệc lớn, tiệc cưới, và khiêu vũ. Phải vâng lời cha giám đốc, và chỉ khi có
phép mới được đi xa nơi mình ở.
Một thành viên gây ra
lỗi nặng hay gương mù có thể bị sa thải. Giám đốc dòng Ba do dòng chọn và bổ
nhiệm. Chính hội đồng dòng Ba chọn một trong số những thành viên kỳ cựu làm
đoàn trưởng.
TRUYỀN
THỐNG THỨ HAI
Truyền thống này cho
rằng dòng Ba là hậu thân của “đạo quân Đức Giêsu Kitô”, một nhóm do thánh Đaminh
trực tiếp thiếp lập. Truyền thống này dựa trên phát biểu của tu sĩ Raymond
Capua thế kỷ 14, được đức Bênêđictô XV lập lại trong lá thư
gởi dòng Ba năm 1920. Nhưng truyền thống không có giá trị trước những khảo cứu
lịch sử. Trước hết “đạo quân Đức Giêsu Kitô” được thiết lập nhằm bảo vệ giáo
hội, bảo vệ các tín hữu và tài sản của giáo hội Công giáo trong những nơi bị
quân rối chiếm đóng. Còn mục đích những người sám hối là khổ hạnh và sống Tin mừng.
Thứ đến, đạo quân đó do đức giám mục thành Toulouse sáng lập. Điều này cho thấy
đạo quân Đức Giêsu không có dính dáng gì tới thánh Đaminh, dù cho đức giám mục thành
Toulouse là bạn thân của cha thánh. Có chăng sự liên hệ giữa dòng Đaminh và đạo
quân đức Giêsu,
là vì sau này đức Gregory IX đã trao cho các cha Đaminh trách nhiệm linh hướng
và điều hành “Đạo quân Đức Giêsu Kitô”.
Như thế, có
thể khẳng định dòng Ba phát sinh từ trong phong trào “Sám hối”, chứ không phải
“Đạo Quân Đức Giêsu Kitô”. Hơn nữa, tổng quyền dòng Đaminh đã có lần không chấp
nhận đơn thỉnh cầu của các phần tử đạo quân này đòi sát nhập vào dòng Đaminh.
Cũng nên lưu ý thêm một
chi tiết nữa là khi bề trên tổng quyền Munio de Zamora ban hành bản luật cho dòng
Ba. Đức Nicholas IV, một cựu bề trên tổng quyền của dòng Phanxicô,
đã không hài lòng với việc này. Người không chấp nhận việc sát nhập cũng như
công nhận các thành viên của phong trào Sám Hối là thành viên của dòng Đaminh. Người
đã yêu cầu tổng hội năm 1290 bãi nhiệm chức bề trên tổng quyền của cha, nhưng tổng
hội từ chối. Nên
đích thân đức thánh cha bãi nhiệm chức bề trên của cha Muniô, nhưng may thay,
dòng ba Đaminh vẫn tồn tại.
LỊCH SỬ
KẾ TIẾP
Vào thế
kỷ 14,
cả dòng Ba và dòng Nhất đều sa sút thê thảm và cần được cải tổ nghiêm chỉnh. Bề
trên tổng quyền Raymond Capua than phiền rằng chẳng có ai trong dòng Ba. Có chăng
có ít thành viên ở Bắc Ý. Nhưng đó cũng chỉ là một nhóm những phụ nữ lớn tuổi đạo
đức, gồm các quả phụ trưởng thành, gọi là hội Mantellata. Bề trên tổng quyền
phê bình hội này quá biệt lập. Thánh nữ Catarina cũng cảm thấy khó khăn khi muốn
tham gia vào hội này.
Tu sĩ Thomas Coffarini
bắt đầu canh tân dòng Ba tại Venice. Người đã mở rộng dòng Ba cho nam nữ già
trẻ. Nhưng có lẽ đóng góp xuất sắc cho việc tái thiết dòng Ba phải kể đến tu sĩ
John Dominici, bề trên dòng Đaminh tại Florence, một trong những nhà giảng
thuyết lừng danh nhất thế kỷ 14.
Năm 1405, trong sắc lệnh
Apostolicae Sedis (Tông Tòa), đức Innocent VII đã chính thức công nhận dòng Ba
theo giáo luật.
Thế kỷ 14,
thánh Vinh Sơn đã giảng cho dòng Ba khắp nước Pháp. Thế kỷ 16, các
thừa sai Đaminh đã đưa dòng Ba tới các miền truyền giáo Đông phương: Nhật bản, Trung
hoa, và Đông Dương. Rất nhiều thánh tử đạo dòng Đaminh từ các miền đó là phần
tử dòng Ba.
Nhưng thế kỷ 17 và 18,
vào thời Cách mạng Pháp, dòng Ba cũng như dòng Nhất đều sa sút. Các công hội dòng
Ba tại Pháp được mô tả là “các hiệp hội địa phương”. Thế kỷ 19, khi canh tân dòng
nhất, cha Lacordaire đã quả quyết việc đầu tiên là canh tân dòng Ba. Để nhấn mạnh
đến việc canh tân đó, năm 1844, cha đã cho 4 thanh niên mặc áo dòng Đaminh trong
một nghi lễ tại vương cung thánh đường Đức Bà Paris.
KẾT LUẬN
Dòng Ba bắt nguồn từ ý
muốn giáo dân muốn sống triệt để theo Tin mừng. Dòng Ba tiếp tục tồn tại vì lý
do đó.
Dòng Ba liên kết với dòng
Giảng Thuyết
vì nhận thấy việc tông đồ và tinh thần hành động cũng như chiêm niệm của dòng Đaminh
cũng là của mình.
Dòng Ba đích thực là
một dòng, ordo, và anh em dòng Ba là
các tu sĩ đích thực theo nghĩa thời trung cổ của những chữ này và ý nghĩa đó có
liên quan nhiều tới những hoàn cảnh đương thời hơn là tới những chữ trong giáo
luật hiện tại.
Dòng Ba và dòng Nhất
gắn bó với nhau trong một tương quan “cộng sinh”. Tự diển Webster định nghĩa
“cộng sinh” là “chung sống với nhau trong một liên kết thân mật ít nhiều hay
một kết hiệp xoắn xuýt giữa hai cơ năng khác nhau”: “một tương quan phúc lợi hỗ
tương”.
Dòng Ba cần một chương
trình rõ rệt theo mục đích phát triển tông đồ.
Suốt bài, tôi đã nói
tới dòng Ba. Ngày nay danh hiệu đã đổi thành “Giáo dân Đaminh” và đã được nhiều
người chấp nhận danh xưng này, nhưng theo tôi nên dịch là “Người Đaminh trần thế”.
Vì như vậy mới lột tả hết ý nghĩa của nó. Các bạn là những phần tử của dòng, do
một kết nạp lịch sử và có lời tuyên hứa đầy ý thức. “Bạn đã đi vào qua cửa
thánh Đaminh” như nhà ẩn sĩ Rainier đã nói.
NGƯỜI GIÁO DÂN VÀ SỨ VỤ
CỦA DÒNG[4]
Tổng hội Avila đã thành lập một ủy ban đặc trách nghiên cứu vai trò của
người giáo dân trong hoạt động tông đồ của chúng ta. Như vậy, tổng hội đã lưu tâm
đến tầm quan trọng của người giáo dân trong giáo hội đang gia tăng, đặc biệt
sau công đồng Vaticanô II. Ủy ban nói trên đã ủy nhiệm cho vị tổng quyền
"viết cho anh chị em và toàn thể gia đình Đaminh về vai trò người giáo dân
trong hoạt động tông đồ của chúng ta, và về người giáo dân Đaminh trong thế
giới hôm nay" (số 95).
Lá thư này nhằm thi hành ủy nhiệm của tổng hội. Đây là món quà gửi tặng toàn
thể gia đình Đaminh vì những thành quả đã đạt được trong lãnh vực quan trọng
này của giáo hội, đồng thời cũng là lời mời gọi huynh đệ gởi đến mọi phần tử
trong gia đình chúng ta, nhằm tăng cường sự quan tâm và hoạt động của mình trong thách đố mới mẻ này
của giáo hội.
1. SỰ THỨC TỈNH CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN, DẤU CHỈ MỚI
TRONG GIÁO HỘI
Công đồng Vaticanô II đã nói về một dấu chỉ mới trong giáo hội, đó là sự
thức tỉnh của người giáo dân hướng về một giai đoạn mới là đồng trách nhiệm và
ý thức cộng đoàn. Lời lẽ của công đồng bày tỏ sự công nhận và tán thưởng đối
với giai đoạn mới này trong giáo hội, đồng thời cũng mời gọi toàn thể giáo hội
tiếp tục theo hướng đó. Thượng hội đồng giám mục về giáo dân mới đây đã nhắc
lại một lần nữa tiếng nói thẩm quyền của công đồng, và vạch ra những hướng đi
cũng như những mục tiêu mới, để tái củng cố ơn gọi và sứ vụ của người giáo dân trong giáo hội.
Sự thức tỉnh của người giáo dân để phục vụ và lãnh trách nhiệm trong giáo
hội là một thời điềm có ý nghĩa thần học sâu xa. Tuyên ngôn của công đồng và
của thượng hội đồng giám mục chỉ phản ánh một sự kiện lịch sử đang diễn ra khắp
nơi trong mọi giáo hội địa phương cũng như trong giáo hội toàn cầu.
Ta cùng nhìn lại một số điểm trong giai đoạn này của giáo hội:
a. Các giáo hội địa phương,
đa số là giáo hội trẻ, đang lấy lại được sức sống mãnh liệt, nhờ tinh thần đồng
trách nhiệm tích cực của người giáo dân, nam cũng như nữ, ý thức về ơn gọi Kitô
hữu, về sứ vụ và trách nhiệm tông đồ của mình. Các nỗ lực phục hồi sinh khí, cải
tổ nội bộ, hội nhập văn hóa, canh tân tinh thần truyền giáo ... thường đã được thúc đẩy và
đem ra thực hành bởi người giáo dân trong sự đối thoại và hợp tác đối với các
chủ chăn của họ.
b. Sự kiện người giáo dân càng ngày càng đảm nhận nhiều
tác vụ trong các cộng đoàn Kitô hữu có một tầm quan trọng đặc biệt. Con số các
giáo dân nhận thức và đảm trách những tác vụ đặc biệt (trong hoặc ngoài định
chế) mỗi ngày mỗi gia tăng. Trong đa số trường hợp, các tác vụ đó đã được chủ
chăn công nhận và tán thành. Cũng đang gia tăng con số các giáo dân tham gia
vào việc giảng dạy giáo lý và loan báo Tin mừng, suy tư và giảng dạy thần học,
hướng dẫn và linh hoạt cộng đoàn, quản trị và công tác xã hội, đấu tranh cho
công lý và hòa bình trên thế giới
... Các tác vụ đó đã được thực hiện do thiện chí thúc đẩy. Những người đứng
ra đảm nhiệm cảm thấy cần phải được huấn luyện, chuẩn bị và thực tập thích
đáng.
c. Xét về mặt thần học,
giáo hội và mục vụ, sự gia tăng con số giáo dân đóng vai trò lãnh đạo thật rất
có ý nghĩa. Đây hoàn toàn không phải là công việc lãnh đạo để bù vào sự thiếu
vắng linh mục hay thay thế các ngài. Đó chính là vai trò lãnh đạo của người
giáo dân, nhờ đoàn sủng và ơn thánh đặc biệt, cảm thấy mình được mời gọi, để trở thành những
người làm sinh động các cộng đoàn Kitô hữu bằng cầu nguyện, chia sẻ lời Chúa,
và dấn thân vào các lãnh vực xã hội và chính trị ... qua các hoạt động bác ái
và chân lý. Những người giáo dân lãnh đạo này đã vạch ra và khai mở một giai đoạn
mới, cả về quan niệm lẫn sự thực thi quyền bính trong cộng đoàn Kitô hữu.
d. Trong sự thức tỉnh của người giáo dân, sự hiện diện
của người phụ nữ sau nhiều thế kỷ im hơi lặng tiếng và đứng bên lề, có tầm quan
trọng và đáng lưu ý đặc biệt. Các tài năng tự nhiên và đặc sủng của họ đã thổi
một luồng sinh khí mới vào cộng đoàn Kitô hữu, và biểu lộ một bộ mặt mới của
đời sống Kitô giáo. Nhận thức tinh tế của họ về thực tiễn, khả năng nhạy cảm
của nữ tính, bản năng làm mẹ, sự kiên trì trước khó khăn ... biểu lộ những khía cạnh tiềm
tàng của lời Chúa, của sự hiệp thông Kitô giáo và của kinh nghiệm nước Thiên
Chúa.
Những sự kiện trên đang diễn ra trong giáo hội hôm nay, đã tạo được sự hợp
tác ngày càng gia tăng giữa giáo dân, tu sĩ và linh mục trong các lãnh vực khác
nhau của đời sống giáo hội. Các nam nữ tu sĩ càng ngày càng tham gia chia sẻ
các dự phóng sinh hoạt và tông đồ với các tu sĩ khác và với các giáo dân nam
cũng như nữ, có gia đình hoặc độc thân. Người giáo dân không còn đơn thuần là
những người đón nhận sứ vụ của chúng ta; họ chia sẻ với chúng ta, và chúng ta
chia sẻ với họ cùng một trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu.
Đứng trước sự kiện này của giáo hội, chúng ta, các tu sĩ Đaminh, cần tự
đặt ra cho mình một số câu hỏi: chúng ta cảm nghiệm và phản ứng như thế nào
trước sự thức tỉnh của người giáo dân trong giáo hội? Chúng ta có làm ngơ các
sự kiện đó vì tự mãn không? Chúng ta có phủ nhận các sự kiện đó vì những sợ hãi
giả tạo không? Chúng ta có thái độ và phản ứng thế nào khi đối diện với người
giáo dân? Người giáo dân có vị trí nào trong tác vụ tông đồ của chúng ta, trong
việc soạn thảo và thực hiện các dự phóng tông đồ của chúng ta? Đồng cảm với giáo
hội hôm nay có nghĩa là, ngoài các việc khác, chúng ta phải tự đặt ra cho mình
những câu trả lời trên và trả lời một cách chân thành.
2. NHỮNG CƠ SỞ THẦN HỌC CHO SUY TƯ KITÔ GIÁO
Suy tư thần học ngày nay nhìn vào những thời điểm để đọc, để giải thích
và nhận ra những đòi hỏi của lời Chúa và của kinh nghiệm Kitô giáo. Nghiên cứu thần học hay
giảng thuyết là đặt lời Chúa tiếp cận với những hoàn cảnh lịch sử của con người.
Sự trung thành với truyền thống thần học phong phú của chúng ta đòi hỏi chúng
ta chăm chú lắng nghe, và phân định về phương diện thần học dấu chỉ thời đại mới mẻ này của giáo
hội. Ta không thể quên rằng chính các anh em trong dòng, với tư cách là những
nhà thần học trong công đồng Vaticanô II, đã triển khai nền thần học về người
giáo dân và về tác vụ trong cộng đoàn Kitô hữu.
a. Cơ sở đầu tiên để suy tư về
người giáo dân và về sứ vụ của họ trong giáo hội đã được trình bày cho chúng ta
qua giáo thuyết về giáo hội của công đồng Vaticanô II. Giáo thuyết này đã thay đổi cách nhìn
từ một định nghĩa giáo hội theo thể chế pháp lý sang một quan điểm và định
nghĩa giáo hội có tính cách thần học. Phạm trù tranh luận trong định nghĩa mới
này là dân Thiên Chúa: giáo hội là dân mới của Thiên Chúa, được qui tụ do niềm
tin vào Chúa Phục Sinh, và được ghi dấu nhờ phép thánh tẩy nhân danh Chúa Giêsu
Kitô. Ngày nay, có người lại khẳng định rằng chính sự hiệp thông mới diễn tả
bản chất giáo hội thích hợp hơn. Dù sao đi nữa, công đồng Vaticanô II và truyền
thống cố cựu đã thiên về định nghĩa giáo hội là dân Thiên Chúa: Tất cả những người
đã chịu phép thánh tẩy đều được trọn quyền tham dự vào ơn gọi sứ vụ này. Tất cả
đều là dân Thiên Chúa, là những thành phần năng động và có trách nhiệm trong giáo
hội để thi hành sứ vụ của giáo hội.
b. Quan niệm của công đồng về giáo
hội đưa chúng ta tới một quan niệm mới về tác vụ nói chung và các tác vụ trong giáo
hội. Mọi tác vụ và đoàn sủng đều là hồng ân Thiên Chúa ban qua cộng đoàn, và đây
là cơ sở quan trọng thứ hai cho suy tư thần học của chúng ta: chủ đề của tác vụ
là cộng đoàn Kitô hữu. Mỗi người đã chịu phép thánh tẩy đều chia sẻ triệt để
chiều kích tác vụ đó, còn các thừa tác vụ khác nhau chỉ là cách diễn tả chiều
kích trong cộng đoàn.
c. Cơ sở thứ ba cho suy tư thần
học đòi buộc chúng ta xét lại nền thần học truyền thống về tác vụ. Tôi muốn nói
tới các tiêu chuẩn để đánh giá và xếp hạng các tác vụ đó. Tính cách thiêng liêng
của các tác động phụng vụ và sự liên kết chặt chẽ giữa tác vụ linh mục và quyền
bính trong giáo hội buộc chúng ta dựa vào quan điểm thánh thiện và phụng vụ để
đánh giá các tác vụ này. Theo chiều hướng đó, thì các chức năng và tác vụ có
liên hệ với phượng tự chiếm chỗ cao nhất trong hệ thống giá trị thần học của chúng
ta. Còn các tác vụ có tính thế tục hơn bị xếp vào hạng thứ yếu. Điều này cần
phải thay đổi. Nhớ đến khuyến cáo của thánh Phaolô gửi cho các tín hữu Côrintô,
chúng ta phải lấy lại những tiêu chuẩn về cộng đoàn để đánh giá và xếp hạng ưu
tiên cho đoàn sủng và tác vụ. Các đoàn sủng và tác vụ trở nên quan trọng hơn
đối với người Kitô hữu tùy theo chúng góp phần xây dựng cộng đoàn đến mức nào.
Cơ sở thần học thứ ba này giúp chúng ta vượt qua chủ trương nhị nguyên
truyền thống và, trong nhiều trường hợp, vượt qua được sự đối lập giả tạo giữa
hàng linh mục và giáo dân. Nên nhắc lại ở đây những lời của cha Yves Congar về
vấn đề này:
"Giáo hội không chỉ được xây dựng nhờ hoạt động của các thừa tác
viên chính thức trong hàng linh mục, nhưng còn do nhiều loại phục vụ bền vững
hay tạm thời, tự nguyện hay đã được thừa nhận, một số được thánh hiến nhờ bí
tích truyền chức. Những việc phục vụ đó vẫn tồn tại, ngay cả khi không được nói
đến với danh nghĩa là tác vụ, những tác vụ không có một vị trí và một qui chế
đích thực trong giáo thuyết về giáo hội
... Như thế, chúng ta thấy yếu tố kép có tính cách quyết định không phải
là linh mục và giáo dân, nhưng là phục vụ và cộng đoàn".
Điều đó giúp chúng ta hiểu được tính đa dạng và việc phân phối các đoàn sủng
và tác vụ, giữa mọi phần tử trong cộng đoàn, người có chức thánh hoặc giáo dân,
nam hay nữ. Cuối cùng, quan trọng hơn hết, điều đó giúp chúng ta nhận thức ý
nghĩa Kitô giáo sâu xa về các tác vụ do những người đã chịu phép thánh tẩy thi
hành trong việc tìm kiếm một xã hội nhân bản hơn, huynh đệ hơn và công bằng
hơn: thăng tiến, hỗ trợ, và bảo vệ nhân quyền ...
Những cơ sở thần học trên đây phải khích lệ việc suy tư và phân định của
chúng ta trong đời sống hoạt động mục vụ và giáo hội của chúng ta.
Thần học ngày nay cung cấp cho chúng ta những điểm chắc chắn và những
điểm cần tranh luận xoay quanh vấn đề tác vụ. Sứ vụ của các tu sĩ Đaminh là
cống hiến cho cộng đoàn Kitô hữu kiến thức thần học và tác vụ về đoàn sủng, nếu
chúng ta muốn trung thành với truyền thống. Tuy nhiên, suy tư thần học sẽ kém
phong phú, nếu tách rời hoạt động của Kitô hữu, của giáo hội, và hoạt động tông
đồ của chúng ta.
3. NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ DẤN THÂN ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH ĐAMINH
Trọng tâm của đoàn sủng Đaminh phải là việc giảng thuyết, là loan báo lời
Chúa. Là tu sĩ Đaminh chính là nhà giảng thuyết. Đây là điều quan trọng nhất
trong dự phóng Đaminh. Tuy nhiên, việc loan báo này không phải chỉ là những bài
giảng giáo lý, giải thích Tin mừng hoặc giảng dạy thần học, mà phải thể hiện
trong bất cứ lời nói hoặc thực tiễn lịch sử nào, nói lên biến cố cứu độ trong
lịch sử nhân loại. Chỗ gặp gỡ đặc biệt giữa tu sĩ Đaminh chính là đoàn sủng và
tác vụ giảng thuyết. Gia đình Đaminh được mời gọi để trở nên cộng đoàn giảng
thuyết, trong đó các anh chị em, các tu sĩ và giáo dân đều là những thành viên
tích cực và đồng trách nhiệm, với những đặc sủng và tác vụ khác nhau.
Dòng đã ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử giáo hội có khủng hoảng,
nhưng đồng thời lại có sức sống phi thường. Đó là giai đoạn có sự thức tỉnh của
các phong trào giáo dân, sự thức tỉnh này đã ảnh hưởng đến sự khai sinh và dự
phóng căn bản của các dòng hành khất, và đã tạo nên một quan niệm mới về giáo hội,
vượt ra ngoài ranh giới giáo xứ và giáo phận. Trong lịch sử dòng, có những kinh
nghiệm đầy ý nghĩa có thể giúp chúng ta hiểu và đảm nhận thời đại mới của giáo
dân: việc sát nhập dòng ba vào dự phóng Đaminh, việc phát huy các chức năng và
tác vụ của anh em trợ sĩ, việc nhiều dòng nữ sát nhập vào sứ vụ của dòng. Nhắc
lại những sự kiện này là gợi ra một thách đố cho thời đại mới.
Mặc dầu điều đó đôi khi khó khăn, nhưng ở đây chúng ta còn có thể áp
dụng được một số điểm. Tôi nghĩ rằng, ngày nay, các cộng đoàn của chúng ta được
mời gọi để khai mở và củng cố những hoạt
động mới của giáo hội nhằm đưa người giáo dân vào cộng tác trong sứ vụ
của giáo hội. Việc cầu nguyện chung với giáo dân sẽ đem lại cho họ sự phong phú
của lời cầu nguyện đã từng là sức mạnh trong nhiều thế kỷ, đồng thời chính việc
cầu nguyện chung này cũng đem lại sự mới mẻ và tươi mới, nhờ những kinh nghiệm mới trong
Kitô giáo. Một số cộng đoàn của chúng ta sẽ tăng thêm sinh lực nếu chia sẻ việc
cầu nguyện với giáo dân. Quả thực, dòng chúng ta có những bằng chứng rõ ràng về
việc đổi mới kiểu này.
Cũng cần phải bắt đầu và tăng cường những hình thức mới trong việc
nghiên cứu học hỏi có giáo dân cộng tác. Việc này không thể đi theo một chiều
duy nhất như thể chúng ta là thầy, còn giáo dân là môn sinh, nhưng là việc học
hỏi của cả cộng đoàn. Lời Chúa không bị trói buộc, mà mở ra cho tâm trí mọi tín
hữu đang quan tâm lắng nghe. Nhờ nghiên cứu thần học, chúng ta có thể cống hiến
sự phong phú, nhưng chúng ta cũng phải biết lắng nghe để được thêm phong phú
nhờ việc đối thoại với các tín hữu.
Công việc tông đồ của chúng ta cũng phải được xét lại và định hướng lại
trong cái nhìn về tác vụ mới của giáo dân, để có thể đáp ứng cách thích đáng
cho một tương quan mới giữa giáo hội với người giáo dân. Những công việc này
đòi hỏi một hình thức thi hành quyền bính và lãnh đạo mới, có tính cách tập
đoàn hơn. Chúng ta phải tìm những đường lối để chia sẻ việc soạn thảo các dự
phóng tông đồ, để phân chia các chức năng và các tác vụ trong hoạt động tông đồ
của chúng ta ... Việc phục vụ Tin mừng phải giữ ưu tiên, vượt trên những thói quen,
những tiện nghi và những nỗi sợ sệt của chúng ta. Một cộng đoàn Đaminh trong tư
thế thi hành sứ vụ và lữ hành là một cộng đoàn mở ra với hiện tại và tương lai
của giáo hội và của xã hội.
Tổng hội Avila (số 85A) đã đề cập tới những trăn trở còn tồn tại nơi
giáo dân Đaminh. Trong lúc này, họ thường gặp một khó khăn đặc biệt: các huynh
đoàn thiếu vắng lớp người trẻ, và do đó, thiếu sức sống. Phải chăng một phần là
do thiếu hiểu biết những giáo huấn của giáo hội từ công đồng Vaticanô II liên
quan tới vấn đề này, và do đó phải hứng chịu thất bại khi thực hành.
Vấn đề đã được phân tích trong hội nghị giáo dân Đaminh nhóm họp tại
Montréal 1985. Đứng trước tình trạng này, chúng ta phải suy nghĩ và định hướng
cho người giáo dân Đaminh, sao cho phù hợp với những sinh hoạt mới của giáo hội
và những cơ sở thần học mới, liên quan đến vị trí và sứ vụ của người giáo dân trong giáo hội và
trong thế giới.
4. ĐƯỜNG DẪN TỚI TƯƠNG LAI
Anh chị em chúng ta đang dần dần quen với những kiểu cách mới khi thi
hành sứ vụ Đaminh để phục vụ giáo hội mới đang vươn lên. Nhiều người đã thực sự
bắt đầu và đã trở thành những nhân tố trong toàn thể gia đình Đaminh. Lối sống
mới của họ làm cho ơn gọi Đaminh trở nên đáng tin cậy hơn. Đây là cơ hội thuận
tiện để canh tân dòng chúng ta. Sự thức tỉnh của người giáo dân đem lại cho
chúng ta một biên cương mới. Muốn vượt qua biên cương này, chúng ta phải có can
đảm.
Tương lai của giáo hội và của gia đình Đaminh đòi hỏi nhiều nơi chúng ta.
Những lý lẽ đổi mới có thể tạo cho chúng ta một sự yên ổn giả tạo, nhưng như
thánh Gioan Tẩy giả, vị giảng thuyết tiên khởi về Đức Giêsu Kitô đã nhắc nhở: "Tôi phải nhỏ đi, để Người
lớn lên" (Ga 3,30). Cũng như Chúa Giêsu, ân sủng Thiên Chúa sống nơi mỗi
người tín hữu tăng triển khi họ loan báo ân sủng đó cho đến tận cùng trái đất.
Ước mong kỷ niệm về thánh phụ Đaminh đem lại cho chúng ta lòng can đảm
để dấn thân vào dấu chỉ mới của giáo hội.
[1] Như vậy dòng Ba không
phải là cha thánh Đaminh đã lập, như người ta vẫn lưu truyền
trước nay.
[2] Theo cha Rihchard
Weber, OP, thì ban đầu thánh Phanxicô lập dòng giáo dân, nhưng
về sau dòng này lại trở thành dòng giáo sĩ. Sau đó ngài mới lập một dòng cho những
người không thuộc phong trào giáo dân, nhưng cũng không muốn
trở thành giáo sĩ. Nhưng vì ảnh hưởng của phong trào giáo dân quá mạnh, mà anh
em Phanxicô đã
không tiếp nối với họ, để rồi vào khoảng 1221, thánh Phanxicô
quyết định
tìm họ lại và lập thành dòng Ba.
[3] Xem tu luật Munio
[4] Trích lại trong “HÀNH HƯƠNG TRONG ĐỨC TIN” Thư bề trên tổng quyền Damian Byrne, O.P.
Comments
Post a Comment