Huân luyện ban phục vu 1

 Ban phục vụ

   PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH

    NGƯỜI GIÁO DÂN ĐAMINH

 

1. Khái niệm nhân cách

Nhân cách là cách sống chuẩn mực phù hợp với phẩm giá con người, bao gồm các yếu tố đạo đức, lương tâm, ý chí, trí tuệ ... Cách sống này thể hiện qua mối quan hệ giao tế với người khác, vì con người tự bản chất được tạo dựng không phải để sống đơn độc, mà để sống tương quan với nhiều người khác. Cộng đoàn nhỏ nhất và cơ bản nhất là gia đình, rồi đến xóm làng, khu phố và sau cùng là xã hội và nhân loại. Chính kết quả mối quan hệ giao hảo sẽ xác định nhân cách con người. Xã hội loài vật cũng sống chung đụng hợp quần, nhưng chúng không hề cần đến nhân cách và giao tế, vì chúng chỉ sống theo bản năng tự nhiên mạnh được yếu thua, và sống hay chết cũng theo qui luật đó. Con người trái lại, rất cần nhân cách và giao tế để sống chung trong hòa bình và trật tự. Chứng tỏ con người là thụ tạo siêu việt hơn tất cả, vì được mang hình ảnh thần linh của Thiên Chúa và được Người thông ban sự sống siêu nhiên của Người (nhân linh ư vạn vật).

 

2. Sống nhân cách

Nhiều người thông minh đĩnh đạt, có tài năng trí tuệ, có trình độ văn hóa với bằng cấp cao, hiểu biết sâu rộng, nhưng lại sống thiếu lương tri, không tôn trọng sự thật, không biết phải quấy, xem thường danh dự và đạo đức cá nhân cũng như ý thức trách nhiệm. Những người này có thể có mức sống vật chất cao, tiền của dư đầy, tiêu xài lớn, nhà cửa thênh thang với đầy đủ tiện nghi, nhưng về thực chất, những người này sống thiếu nhân bản, nghĩa là thiếu phần căn bản gốc rễ của đạo làm người, nên đã trở thành tai họa cho chính mình, cho gia đình và xã hội.

Trên bước đường thăng tiến sự nghiệp, họ không khỏi chuốc lấy thất bại và đó chính là hậu quả của nếp sống thiếu nhân cách.

 

3. Nhân cách thể hiện ở bên ngoài cũng như bên trong con người

Bên ngoài nhân cách bộc lộ qua thể hình, cung cách đi đứng, y phục, ngôn ngữ và hành động. Một khuôn mặt vui tươi, một nụ cười duyên dáng, một tiếng cảm ơn chân thành, một lời xin lỗi khiêm nhu, tất cả đều là những nét đẹp của nhân cách, của một tâm hồn thiện chí và quảng đại. Nhường chỗ trên xe buýt cho một cụ già hay một phụ nữ, nhất là phụ nữ đang mang thai, dẫn một em bé hay một người tàn tật qua đường, đều là những cử chỉ và việc làm đầy lòng nhân ái của người có nhân cách.

Còn bên trong, thì nhân cách biểu lộ qua tính tình trung thực, nhân hậu và yêu thương cùng với tinh thần trách nhiệm cao, cũng như bản lãnh và uy tín đầy thuyết phục làm cho mọi người kính nể và mến yêu.

Ngày nay, do ảnh hưởng của kinh tế thị trường, người trẻ đua nhau trong cách ăn mặc cho hợp thời trang, đúng gu, đúng mốt, còn cho mọi điều khác là quê mùa. Trong chừng mực nào đó, thời trang là vẻ đẹp của văn hóa, nhưng người trẻ đừng cho là mục đích. Danh ngôn sau đây có thể là mẫu mực cho người trẻ: “Nếu quần áo bạn đập vào mắt người khác, trước khi nhân cách của bạn được biểu lộ, bạn không có hy vọng gì thành công”.

 

4. Tập luyện nhân cách

Người giáo dân Đaminh học hỏi để rèn luyện nhân cách và làm cho nhân cách được lớn lên và trưởng thành trong cung cách sống. Người giáo dân Đaminh sống trưởng thành trong đức tin, thì đồng thời cũng phải trưởng thành về thể lý và tâm linh.

Nhân cách không dễ gì rèn luyện ngay được, nhưng phải dầy công tập luyện từng bước và liên tục. Người xưa nói: “Hữu bách tuế như đồng, hữu thất tuế như ông”, nghĩa là: “Cả trăm tuổi nhưng vẫn là trẻ con, mà mới bảy tuổi đã là người lớn”. Như vậy, chúng ta đừng tưởng là thân xác to lớn và tuổi đời cao, là nhất định chúng ta đã trưởng thành.

Do đó:

a. Chúng ta chỉ là người lớn, người trưởng thành khi chúng ta ý thức trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động của mình.

b. Người trưởng thành về nhân cách biết cân nhắc, suy xét và can đảm quyết định mọi công việc của mình và sẵn sàng chịu trách nhiệm. Trong mọi công việc của đời sống, chúng ta cần cố vấn, cần sự góp ý khách quan của người ngoài, nhưng không ai có thể quyết định thay cho chúng ta.

c. Chúng ta chỉ là người trưởng thành về nhân cách khi chúng ta tôn trọng người khác, bởi vì người có nhân cách nhìn nhận sự hiện diện và tự do của người khác, đồng thời mong muốn làm cho đời sống người khác có ý nghĩa và phẩm giá con người như chính mình. Nói cách khác, người trưởng thành về nhân cách không trốn tránh trách nhiệm của mình đối với người khác.

 

5. Giao tế

Chúng ta, những người giáo dân Đaminh, cần vun trồng những mối quan hệ tốt, qua những việc nhỏ nhặt thường ngày, với cử chỉ và lời lẽ khiêm tốn, thái độ tế nhị. Trong kinh thánh, chúng ta thấy thánh Gioan Tẩy giả là mẫu mực tuyệt đẹp trong việc xây dựng và vun trồng mối quan hệ tốt. Thánh nhân đóng vai trò “đi trước” để mở đường, người đã khéo léo chuẩn bị môi trường tình cảm cho người đến sau mình: “Người ấy đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi vì có trước tôi, còn tôi, tôi không đáng cởi dây giày cho Người”. Quả thật, ông không lợi dụng uy tín hoặc thế giá của mình để giảm nhẹ địa vị của người mà ông có nhiệm vụ vận động và cổ võ trước dân chúng.

 

 

 

Câu hỏi gợi ý

1. Tại sao con người phải sống có nhân cách?

2. Thái độ sống thiếu nhân cách sẽ dẫn đến những hậu quả nào?

3. Nhân cách thường thể hiện nơi con người ra sao?

4. Người giáo dân Đaminh phát triển nhân cách bằng những phương pháp nào?

5. Như thế nào mới được gọi là người trưởng thành về nhân cách?

6. Người giáo dân Đaminh vun trồng quan hệ giao tế bằng cách nào? Trích một mẫu gương trong Kinh Thánh về cách vun trồng quan hệ giao tế.

  

THẬP ĐẠI THẮNG

Đức cố hồng y PX Nguyễn Văn Thuận

 1. Khiêm tốn tôn trọng nhân phẩm của mỗi cá nhân; uyển chuyển, linh động, lắng nghe sáng kiến của mọi người, rồi suy nghĩ và lượng giá.

2. Ý thức, tin tưởng sứ mạng của mình như ơn Chúa trao ban. Bình tĩnh, khôn ngoan, sáng suốt trước mọi biến cố.

3. Có thuật dùng người, chấp nhận đối thoại, tìm hiểu từng người, tâm hồn quảng đại, biết quên bỏ những lầm lỗi của người khác. Lắng nghe bạn bè khuyên bảo, nhất là biết bình tĩnh lắng nghe kẻ thù chỉ trích.

4. Tín nhiệm vào cộng sự viên, xem, xét, làm. Quyết định sáng suốt, thực hiện cho kỳ được.

5. Chia sẻ trách nhiệm với các cố vấn, chuyên viên, cộng sự viên. Luôn tìm tòi, học hỏi trau dồi thêm khả năng.

6. Nói ít, làm nhiều, luôn tôn trọng kỷ luật, đi tiên phong, nêu gương sống trong mọi lãnh vực, nhìn thẳng thực tế, khách quan, khiêm tốn lúc thành công, chia sẻ niềm vui với cộng sự viên, kiên trì và nhẫn nại, không bao giờ thất vọng.

7. Sẵn sàng hy sinh tất cả vì sứ mệnh, can đảm nhận trách nhiệm, cùng thành công, cùng thất bại, không bao giờ làm tổn thương tình huynh đệ. Sẵn sàng nhận điều khó cho mình, nhường cái dễ cho cộng sự viên.

8. Trước mỗi việc, đều có chương trình, kế hoạch. Sau mỗi việc, đều kiểm điểm chân thành, phê bình và tự phê bình, sợ tâng bốc, thích nghe nói thẳng, nói thật.

9. Chỉ tìm phục vụ, luôn quên mình vì sứ vụ và xác tín rằng mình chỉ là khí cụ của Chúa, nên chỉ tìm ý Chúa. Giữ vững lập trường, thấy ai hơn mình thì vui mừng. Chuẩn bị cho tương lai, dọn đường và trao hết kinh nghiệm cho người kế vị mình.

10. Trước mọi công việc, trong mọi khó khăn thử thách, luôn biết cầu nguyện, tìm ánh sáng và sức mạnh nơi Chúa. Bàn hỏi với Chúa trước hết, phó thác cho Chúa trọn vẹn. Hy vọng trong thất vọng, cứ vui vẻ tiến lên, ngày mai, tương lai có Chúa lo.

  

THẬP ĐẠI BỆNH

Đức cố hồng y PX Nguyễn Văn Thuận

 

1. Bệnh quá khứ cục bộ: chỉ có quá khứ là đáng kể, và ước ao trở về thời vàng son đó.

2. Bệnh tiêu cực bi quan: thở than và chỉ trích mọi người mọi việc.

3. Bệnh phô trương chiến thắng: làm tất cả chỉ để khoe khoang cái tôi của mình.

4. Bệnh cá nhân chủ nghĩa: chỉ nghĩ đến mình và quyền lợi của mình.

5. Bệnh lười biếng tránh né: sợ tốn công, sợ liên lụy, nói mà không làm, luôn tìm mọi lý do để tránh né.

6. Bệnh chuẩn mực trần tục: đánh giá mọi việc và người khác theo cách thức báo chí truyền thông và thị hiếu dân chúng đề ra.

7. Bệnh đợi chờ phép lạ: không dám dấn thân vào công việc, nhưng lại chờ mong được kết quả tốt.

8. Bệnh tùy hứng vô định: Không có lý tưởng rõ ràng và cũng chẳng bao giờ kiên trì trong công việc.

9. Bệnh sống vô trách nhiệm: ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình. Không quan tâm đến việc chung và những bổn phận khác.

10. Bệnh bè phái chia rẽ: lập phe nhóm cho riêng mình. Không chấp nhận người khác ý kiến với mình.

   

THẬP ĐẠI BẠI

Đức cố hồng y PX Nguyễn Văn Thuận

 

1. Kiêu căng, xem người như máy móc, độc đoán, chẳng chịu nghe ai, bảo thủ ý kiến.

2. Băn khoăn, bi quan, khiến cho người nghe cũng đâm hoang mang.

3. Không biết dùng người, không chọn người, không biết huấn luyện, không hòa mình, không khoan dung, sống cách biệt, giữ óc địa phương.

4. Đa nghi với mọi người, mang bệnh “do dự mãn tính”, sợ mất lòng, thay đổi ý kiến như chong chóng.

5. Tự mình ôm đồm bao quát tất cả, lạc lõng trong những chuyện vụn vặt, không phân biệt đâu là chính yếu, đâu là phụ thuộc.

6. Miệng nói rất khéo, nhưng làm thì khác, cuối cùng chẳng ai tin. Tuyên bố rùm beng, nhưng sống và hành động không ra gì. Gặp khó khăn thì buông xuôi nản lòng. Thành công thì huênh hoang tự đắc và cướp công vô ơn với kẻ thành tâm giúp mình.

7. Dấn thân nửa vời, thịnh thì xu thời “xông pha cứu trợ người thắng trận”. Suy thì rút lui nhẹ nhàng, không chịu trách nhiệm, và đổ lỗi cho người khác.

8. Không có chương trình và kế hoạch, hăng tiết theo cảm hứng, thích tấn công, khó chịu khi nghe sự thật mất lòng.

9. Ích kỷ, chỉ tìm danh lợi cho bản thân mình, sợ người khác hơn mình, giấu kỹ những kinh nghiệm của mình.

10. Không cầu nguyện, chỉ tin vào tài năng và mưu mô, thủ đoạn trần tục, trông cậy vào quyền thế.

  

 

2. TINH THẦN VÀ ĐOÀN SỦNG

DÒNG GIẢNG THUYẾT

  

Luật Sống huynh đoàn đã xác định ơn gọi giáo dân Đaminh như sau: “Giáo dân Đaminh là các giáo dân do Chúa Thánh Linh thúc đẩy muốn sống ơn gọi hoàn hảo hơn, theo tinh thần và đoàn sủng dòng anh em Giảng Thuyết, bằng lời tuyên hứa tuân giữ Luật Sống huynh đoàn được bề trên tổng quyền phê chuẩn (LS 2 trang 24). Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu tinh thần và đoàn sủng của dòng anh em Giảng Thuyết là gì?

 

I. KHÁI NIỆM VỀ TINH THẦN VÀ ĐOÀN SỦNG CỦA DÒNG TU NÓI CHUNG

Trong hội thánh, chúng ta thấy có rất nhiều dòng tu. Mỗi dòng tu có một con đường nên thánh riêng. Hội thánh hiện diện ở trần gian theo đà phát triển của nhân loại, thường có những nhu cầu mới. Chúa Thánh Thần đã ban cho các vị sáng lập dòng tu tìm ra một con đường nên thánh, để phục vụ hội thánh trong thời đại mình. Hội thánh phê chuẩn con đường nên thánh đó. Ơn mà Chúa Thánh Thần ban cho vị sáng lập đó gọi là ơn đoàn sủng.

Dưới ánh sáng của ơn đoàn sủng đó, đấng sáng lập và những thành viên tiên khởi sẽ ấn định những cách thức tổ chức dòng mình cho phù hợp. Chẳng hạn họ xác định đường lối quản trị, tìm kiếm phương pháp cầu nguyên và tu đức, ấn định những quy luật huấn luyện, sống cộng đoàn ... Tất cả những yếu tố đó tạo nên gia sản tinh thần của dòng tu đó.

Như vậy, ơn đoàn sủng của một dòng tu là ơn Chúa Thánh Thần ban cho vị sáng lập dòng, để thể hiện lối sống mầu nhiệm Đức Kitô, thích hợp với nhu cầu của thời đại và được hội thánh công nhận. Tinh thần của một dòng tu là những cách thức, đường lối của dòng tu, thể hiện ơn đoàn sủng dòng mình trong cuộc sống.

 

II. ĐOÀN SỦNG DÒNG ĐAMINH

Dòng Đaminh có danh hiệu chính thức là dòng anh em Giảng Thuyết. Điều đó giúp chúng ta dễ dàng nhận ra ngay rằng đoàn sủng của dòng là giảng thuyết.

Vào năm 1205, khi tháp tùng đức cha Diego du hành sang Đan Mạch, thánh Đaminh đã gặp gỡ một người lạc giáo Cathares trong một quán trọ. Người đã làm cho anh ta trở lại đức tin chân chính sau một đêm tranh luận. Qua việc làm đó, người được ơn Chúa soi sáng cho thấy, cần phải có trong hội thánh một dòng tu chuyên tâm dấn thân vào việc giảng thuyết. Nên biết rằng, dưới thời thánh Đaminh, quyền giảng thuyết chỉ dành cho các giám mục. Các đan sĩ, các linh mục triều cũng không được quyền này.

Nguyện vọng của thánh Đaminh đã được đức Hônôriô III chấp thuận. Ngày 22-12-1216, người đã ban sắc lệnh cho phép thành lập dòng với mục đích: chuyên tâm tìm hiểu lời Chúa và rao truyền danh Đức Kitô, Chúa chúng ta khắp thế giới …” (HP nền tảng số 1, §1).  Bản hiến pháp đầu tiên của dòng, do tổng hội đầu tiên họp ở Bologna vào năm 1220, khẳng định đoàn sủng của dòng là: “Dòng chúng ta được thiết lập một cách đặc biệt nhằm để giảng thuyết và cứu độ các linh hồn. Vì thế, hết mọi hoạt động của chúng ta cần phải nhắm tới mục đích: Mưu ích cho linh hồn tha nhân (HPNT số 1§2).

 

III. TINH THẦN DÒNG ĐAMINH

Để sống và thi hành ơn đoàn sủng giảng thuyết, ngay từ đầu, thánh Đaminh và các con cái của Người đã qui định những nét chính sau đây:

1. Đặc tính của dòng Đaminh: “Rao truyền Danh Thánh Chúa Kitô khắp thế giới (HPNT số 1§1). Như đã nói trên, vào thế kỷ XIII, trong hội thánh chưa có một dòng nào chuyên việc giảng thuyết. Vì thế, đức Hônôriô III tán thành việc xin lập dòng của thánh Đaminh, và xác định đặc tính của dòng anh em Giảng Thuyết là “Rao truyền Tin mừng Chúa Kitô khắp thế giới”.

2. Mẫu người Đaminh: Là những con người Tin mừng, noi theo chân Đức Kitô, chỉ nói với Chúa hay về Chúa cho mình hoặc cho tha nhân. Đối với anh em Đaminh, việc noi theo bước chân của Đấng Cứu Thế là chia sẻ đời sống cộng đoàn của Chúa Kitô và các tông đồ cũng như tham dự vào sứ vụ giảng dạy của các Ngài (HPNT số 1§2).

3. Nếp sống của người Đaminh: Sống theo nếp sống của các tông đồ bằng các hình thức thánh Đaminh ấp ủ là: sống cộng đoàn, tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, sốt sắng cử hành phụng vụ và cầu nguyện, chuyên cần học tập và kiên tâm tuân giữ kỷ luật tu trì. Những yếu tố này liên kết chặt chẽ với nhau làm thành nếp sống tông đồ Đaminh, trong đó lời giảng và giáo lý phải phát sinh từ việc chiêm niệm phong phú (HPNT số 1§4).

4. Sứ vụ riêng của dòng Đaminh: Là dòng tu trong hội thánh đảm nhận tác vụ ngôn sứ lẫn tác vụ tư tế. Dòng được sai đến với muôn dân trong tình liên kết với toàn thể hội thánh và mang tính cách phổ quát. Điều này được biểu hiện trong lời tuyên khấn vâng lời vị thủ lãnh của mình là bề trên tổng quyền (HPNT số 1§6).

5. Mô hình tổ chức cộng đoàn Đaminh: Dòng tôn trọng tài năng và trách nhiệm của các phần tử. Do đó luật dòng không buộc thành tội trừ khi khinh thường. Luật có thể được chuẩn chước khi ngăn trở việc học hành, rao giảng, và phần rỗi tha nhân (HPNT số 1§6).

6. Hệ thống quản trị của dòng:

-  Anh em sống hiệp thông từ cộng đoàn tu viện, tỉnh dòng và toàn dòng. Việc cai quản mang tính cách dân chủ và cộng đoàn. Các bề trên do anh em bầu lên và anh em tham gia vào việc quản trị.

-  Các hoạt động của anh em cần linh động để vừa thích nghi với thời đại vừa trung thành với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đã được dòng xác định (HPNT số 1§7,8).

 

KẾT LUẬN

Được tham gia vào ơn gọi của dòng anh em Giảng Thuyết, giáo dân Đaminh chúng ta cần học hỏi, để ngày một hiểu biết và thấm nhuần đoàn sủng và tinh thần dòng và áp dụng trong đời sống, theo tính cách riêng của người giáo dân được Luật Sống quy định (đặc biệt xin coi LC các số 4,7,10,11,12,15,19,20). Chắc hẳn, nhiều người trong chúng ta khi mới vào huynh đoàn đều không nhắm tới những việc trên đây, mà có thể vì những lý do khác ... Nhưng Thiên Chúa lại dùng những lý do khởi đầu rất bình thường (có khi tầm thường nữa) của con người, để dần dà dẫn đưa họ ngày một đi sâu vào huyền nhiệm cứu độ và góp phần với Người trong việc mở mang nước Chúa.


3. CẦU NGUYỆN

 

A. TINH THẦN CẦU NGUYỆN

Từ khi có trí khôn biết suy tưởng, con người luôn sống trong vũ trụ thiên nhiên, chịu tác động của biết bao thế lực bên ngoài như sấm sét, mưa bão lụt lội, cháy rừng, bệnh tật và chết chóc. Những điều đó luôn làm cho con người cảm thấy bất an và bất lực. Và từ đó, tự bản thân, con người luôn cầu khẩn, hướng về một quyền phép cao sang, một Đấng tối cao nào đó để cầu xin, van nài và mong cho được giải thoát, được bình an; và chính những lời nài xin đó là những lời cầu nguyện. Do vậy, việc cầu nguyện không phải là một điều gì mới mẻ, nhưng là tâm tình của tất cả mọi người, chứ không phải là một việc riêng của một vài nhóm thiểu số, một vài cộng đồng.

Người Công giáo chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và mạc khải qua Đức Kitô để biết rằng Thiên Chúa là Cha nhân từ, thương xót, và Đức Kitô là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chia sẻ trọn vẹn kiếp sống phàm nhân. Trong cuộc đời dương thế, Người thường xuyên và liên lỉ cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, và Người cũng dạy chúng ta biết cách cầu nguyện.

1. Cầu nguyện là gì?

Lịch sử giáo hội Công giáo nói riêng và lịch sử Cứu Độ nói chung đã cho thấy có rất nhiều trường phái cầu nguyện, và cũng có rất nhiều bậc thầy hướng dẫn và những tấm gương sáng về việc cầu nguyện. Do đó, việc tìm ra một câu định nghĩa chung để tổng hợp, bao gồm tất cả mọi trường phái, mọi con đường tâm linh quả không phải là một việc dễ làm. Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp của bài này, chúng ta tạm cùng nhau chấp nhận câu định nghĩa sau đây: Cầu nguyện là nói chuyện, thưa gửi, trao đổi tâm tình với Thiên Chúa để ngợi khen, cảm tạ, sám hối và xin ơn. Từ câu định nghĩa này, chúng ta thấy rằng khác với thói quen thông thường mà nhiều người chúng ta hay mắc phải, đó là việc cầu nguyện không phải chỉ có xin, chỉ cầu lợi cho mình ... mà nó còn có nhiều tâm tình khác nữa.

2. Đức Kitô cầu nguyện

Khi nói, khi học về việc cầu nguyện, có lẽ chúng ta không có một tấm gương nào tốt hơn là nhìn ngắm vào cuộc đời và tâm tình của Đức Kitô. Đức Kitô cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc, khi vui, khi buồn, khi làm việc này việc khác. Người cầu nguyện riêng một mình. Người tham gia vào việc cầu nguyện cộng đồng nơi hội đường ... Và đặc biệt trong lời nguyện hiến tế, đã được thánh Gioan ghi lại trong chương 17, là một khuôn mẫu cho lời cầu nguyện của chúng ta: Đức Kitô bàn bạc, thưa trình những nhu cầu, trao đổi nói chuyện với Chúa Cha rất tha thiết và chân thành trong tình cha con.

3. Thánh Đaminh cầu nguyện

Như chúng ta đã biết, các trường phái linh đạo của giáo hội rất phong phú và đã để lại cho chúng ta nhiều bậc thầy, với những tấm gương và kinh nghiệm đáng quý trong việc cầu nguyện, như thánh Biển Đức, Phanxicô, Đaminh, Inhaxiô, Têrêsa ... Tuy nhiên, vì điều kiện hạn chế cũng như thời gian có hạn, chúng ta chỉ cùng nhau dừng lại ở mẫu gương cầu nguyện của cha thánh Đaminh mà thôi.

Được sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống đạo đức, từ nhỏ đã sớm hấp thụ tinh thần cầu nguyện nơi gia đình, nơi người cậu ruột làm linh mục, và được sống trong môi trường tràn ngập tinh thần đạo đức nơi chủng viện, nơi kinh sĩ đoàn Osma ... tất cả những yếu tố đó đã gầy dựng, hun đúc hình thành nơi cha Đaminh một con người cầu nguyện, và người đã để lại cho chúng ta nhiều cung cách và kinh nghiệm về việc cầu nguyện rất phong phú và quý báu ... Do vậy, khi thành lập dòng anh em Giảng Thuyết, cha đặc biệt chú trọng vào việc cử hành phụng vụ chung và việc cầu nguyện riêng (HP 40). Chân phước Jordan Saxony kể lại những năm tháng cha Đaminh sống tại Osma như sau: "Nhiều đêm, chìm đắm trong cầu nguyện, cha đã quen với việc thường xuyên đàm đạo cùng Thiên Chúa trong phòng kín. Thỉnh thoảng, trong lúc cầu nguyện cha bật tiếng khóc nức nở, và những lời than van xuất phát từ trái tim thổn thức. Cha không thể kềm lòng, nên nhiều lúc đã bật kêu to tiếng đến nỗi người ta có thể nghe thấy từ đàng xa. Đó chính là lời cầu nguyện riêng và thường xuyên mà cha dâng lên Chúa, xin Chúa đoái thương ban cho cha lòng bác ái. Lòng bác ái ấy đã sinh hoa kết trái trong việc chăm lo và làm việc vì ơn cứu độ con người ...". Trong việc phụng vụ chung của cộng đoàn, và nhất là trong Thánh lễ, cha Đaminh cử hành rất sốt sắng. Tu sĩ Stephan Spain đã làm chứng về lòng yêu mến Thánh lễ của cha Đaminh như sau: "Tôi rất thường thấy cha cử hành Thánh lễ và thấy mặt cha luôn đẫm lệ suốt phần lễ quy. Những người tham dự đều dễ dàng nhận ra lòng sùng kính và sốt sắng của cha trong suốt Thánh lễ và cách thức cha đọc kinh Lạy Cha. Tôi nhớ là không bao giờ cha dâng lễ mà không rơi lệ ..."

4. Tính chiêm niệm của Dòng

Châm ngôn sống của dòng là "nói với Chúa và nói về Chúa", hay có thể diễn tả rõ hơn đó là "chiêm niệm và nói lại cho người khác điều mình chiêm niệm". Xưa nay, nhiều người trong chúng ta vẫn nghĩ và vẫn hiểu việc cầu nguyện đơn thuần chỉ là việc xin ơn: xin điều này điều khác, xin ơn nọ ơn kia, mà chúng ta quên đi việc chúc tụng, ca khen, chúng ta quên đi lòng yêu mến, cũng như những tâm tình phải có của một người con đối với Cha trên trời. Kinh nghiệm hằng ngày trong gia đình cho ta thấy, con cái không phải lúc nào gặp mặt cha mẹ cũng chỉ có xin; nhưng còn trò chuyện với ba mẹ, và lòng trí luôn hướng đến tâm tình yêu mến cha mẹ mình. Bởi đó, nếu so sánh về mức độ cao thấp, chúng ta thấy việc chiêm niệm ở tầm mức cao hơn việc cầu nguyện, mà ở đó mỗi người sống trong tình trạng kết hợp liên lỉ và chìm đắm trong Thiên Chúa. Để giúp cho mỗi người có thể đạt đến sự chiêm niệm đích thực, thánh Tôma tiến sĩ nói rõ: "chiêm niệm là lắng nghe, đọc sách, suy gẫm và cầu nguyện". Như vậy, ta thấy yếu tố đầu tiên để giúp cho việc chiêm niệm có được kết quả tốt, đó là một môi trường thinh lặng trong một tâm hồn thinh lặng. Có thinh lặng chúng ta mới có thể lắng nghe, mới tập trung đọc sách và suy gẫm, và thinh lặng giúp chúng ta dễ dàng kết hợp với Chúa và cầu nguyện với Người. Từ đó, nhờ sự chiêm niệm sâu xa và sự gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, người Đaminh chúng ta mới đạt tới mục đích tốt đẹp hơn ngoài việc thánh hóa bản thân, đó là rao truyền Thiên Chúa nhằm thánh hóa và cứu độ các linh hồn.

 5. Người giáo dân Đaminh cầu nguyện

Là thành viên, được kết hợp với gia đình Đaminh qua lời tuyên hứa, người giáo dân Đaminh cũng được kêu mời tham gia vào sứ vụ chung của dòng mà thực hiện châm ngôn "nói với Chúa và nói về Chúa". Do vậy, ngay từ đầu, Luật Chung của người giáo dân Đaminh đã kêu gọi tất cả mọi anh chị em hãy nguyện kinh phụng vụ cùng với gia đình Đaminh, cầu nguyện riêng, suy gẫm và đọc kinh Mân Côi (LC 10); và ngay trong luật riêng của giáo dân Đaminh Việt Nam, chúng ta cũng thấy một lời kêu gọi tương tự: nguyện kinh phụng vụ với nhau tại nhà thờ hay nơi thích hợp, nếu không thể được thì suy niệm hoặc đọc kinh Mân Côi ... (LR 4-8).


B. TÌM HIỂU SƠ LƯỢC VỀ KINH PHỤNG VỤ

1. Cùng cầu nguyện với Đức Kitô

Đức Kitô đến trần gian, sống giữa nhân loại và mạc khải cho ta biết về Thiên Chúa và đền thay tội lỗi cho ta. Trong suốt cuộc đời, Đức Kitô không ngừng ca ngợi để tôn thờ, cầu xin và tạ tội; và chính Người cũng thay mặt loài người, dâng lên Thiên Chúa những lời ca ngợi và nguyện xin. Mặt khác, Đức Kitô cũng luôn nhắc nhở các môn đệ và chúng ta là phải cầu nguyện không ngừng, nên hội thánh đã vâng nghe lệnh truyền đó và thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, ngoài Thánh lễ hằng ngày, còn có các giờ kinh phụng vụ (CGKPV).

Lần mở lại những tháng ngày đầu tiên trong sinh hoạt của giáo hội, sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại: "Các tín hữu đã chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng ... (Cv 2,42). Ngoài ra, những trang khác cũng có nói đến việc các tín hữu cầu nguyện vào những giờ nhất định: Vị thủ lãnh tông đồ "lên sân thượng cầu nguyện vào giờ thứ sáu" (Cv 10,9); Ông Phêrô và Gioan lên đền thờ vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín (Cv 3,1). "Vào quảng nửa đêm, ông Phaolô và ông Xila cầu nguyện ca tụng Chúa"..., và từ đó tạo ra cho cộng đoàn tín hữu đầu tiên một thói quen cầu nguyện có tính chu kỳ, và đây chính là tiền thân của các giờ kinh phụng vụ sau này.

2. Mục đích của các giờ kinh phụng vụ

- Mục đích đầu tiên của CGKPV là thánh hóa ngày, giờ và toàn bộ sinh hoạt của con người. Do đó, phải thu xếp sao cho các giờ kinh trùng với giờ thật trong ngày, và phải lưu ý đến hoàn cảnh sống của con người hôm nay.

- Thánh hóa nhân loại: Vì các bài đọc, ca vịnh, thánh thi, xướng đáp ... trong kinh phụng vụ đều lấy từ thánh kinh; do đó, chúng ta có thể nên thánh, tiếp nhận ơn thánh dồi dào nhờ hiệu lực cứu độ của lời Chúa. Đọc kinh phụng vụ là một hình thức phụng thờ Thiên Chúa cách đặc biệt, và khi ta đọc là ta trò chuyện tâm tình với Thiên Chúa.

- Hợp với giáo hội ca ngợi Thiên Chúa: Với chức vụ tư tế, giáo hội dâng lên Thiên Chúa lời ngợi khen, ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa với các thần thánh trên trời. Ngoài ra, hội thánh còn thu nhận vào kinh phụng vụ những lời kêu van nguyện ước của mọi Kitô hữu, để dâng lên Thiên Chúa nhờ công nghiệp và lời cầu nguyện của Đức Kitô, do đó lời cầu nguyện của chúng ta có hiệu lực khác thường.

3. Các loại thánh vịnh

Hầu hết các thánh vịnh là lời kinh của dân Israel, nên gây khó khăn và xa lạ cho con người hôm nay từ hoàn cảnh, địa danh, suy nghĩ ... Ta nên nhớ, lịch sử Israel là lịch sử của hội thánh, do vậy, là Kitô hữu, chúng ta chúc tụng, tạ ơn Thiên Chúa vì các giao ước người đã ký kết với các tổ phụ, cuộc xuất hành, Giêrusalem, lưu đày, và chính Đức Kitô đã hoàn tất lịch sử ấy. Mặt khác, khi đọc thánh vịnh, chúng ta cùng tham dự và hòa hợp tâm tình với dân Chúa xưa, để ca ngợi, chúc tụng, cầu khẩn van xin ... với Thiên Chúa là Cha của chúng ta.

a. Thánh vịnh chúc tụng - tạ ơn

Chủ đề: Hát trong những ngày lễ của Israel: ca ngợi việc sáng tạo, giải thoát dân, các kỳ công của Chúa, việc xuất hành ... Tạ ơn vì được bình an thịnh vượng, thoát khỏi bệnh tật quân thù, bất công, thoát chết ... TV 112 (kinh chiều I lễ Hiện Xuống, kinh chiều I Tuần III). TV 123 (tuần III kinh chiều thứ 2). TV 94 (giáo đầu mỗi giờ kinh). TV 32 (tuần I thứ 3 kinh sáng).

b. Thánh vịnh van xin

Chủ đề: Diễn tả nỗi đau khổ khốn cùng của con người và van xin tình thương của Thiên Chúa đoái thương cứu giúp ... TV 50 (kinh sáng thứ sáu tuần I). TV 129 (kinh tối thứ 4) ...

Hai loại thánh vịnh van xin và chúc tụng tạ ơn giúp ta vui với người vui, khóc với người khóc trong mối liên đới hiệp thông toàn hội thánh; có nghĩa là chúng ta không cầu nguyện một mình mà cầu nguyện với hội thánh và nhân danh hội thánh.

c. Các thánh vịnh về vua

Chủ đề: Đó là những thánh vịnh mà các ngôn sứ ngỏ lời với vua, tạ ơn vua và lời cầu của chính nhà vua ... TV 109 (kinh chiều II các Chúa nhật). TV 71 (kinh chiều thứ 5 tuần II). TV 143 (kinh chiều thứ 5 tuần IV) ... Trong các thánh vịnh này, nhà vua được gọi là Con Thiên Chúa, sự kiện vua Israel được xức dầu của Đức Chúa, là Đấng Mêsia. Người Kitô hữu chúng ta khi đọc các thánh vịnh này nhận ra đây chính là lời sấm về Đức Kitô.

Thay lời kết

Với mục đích giúp cho mỗi người tín hữu chúng ta khi đọc kinh phụng vụ cũng như những lúc cầu nguyện riêng tư được sốt sắng, chúng ta cùng điểm qua sơ lược và cùng nhắc lại một vài điểm chính yếu trong kinh nguyện nói chung, để cho lời kinh nguyện của chúng ta, khi đọc khi hát, mọi người đều biết và ý thức được công việc mình đang làm.

 

4. HỌC HỎI CHIA SẺ LỜI CHÚA

 "Tôi đã dành nhiều thời giờ đọc kinh thánh nhưng lại không hiểu lắm. Tôi đang cần được hướng dẫn về kinh thánh để có thể chia sẻ lời Chúa với nhau và cho nhau. Làm sao bây giờ".

Nhiều người trong chúng ta lớn lên với một kiến thức giới hạn về kinh thánh. Bạn áy náy như thế là điều dễ hiểu vì kinh thánh là trọng tâm của việc sống và chia sẻ lời Chúa. Là những dấu chỉ của lời Chúa, kinh thánh là một phần quan trọng việc sống ơn gọi loan báo Tin mừng của người giáo dân Đaminh.

Rất may, chúng ta có nhiều đường hướng và vô số nguồn mạch hỗ trợ chúng ta học hỏi kinh thánh. Chúng tôi sẽ giới thiệu một đường lối cụ thể và một vài tài liệu. Điều quan trọng là chúng ta biết sử dụng ngay sách kinh thánh. Chúng tôi đề nghị bạn hãy khởi đầu từ những câu chuyện kinh thánh thực tế và những trích dẫn. Điều này bạn có thể tìm thấy trong sách kinh thánh (bạn nên xử dụng các bài đọc của ngày Chúa nhật). Khi đã có sách kinh thánh hoặc bài đọc thì mời bạn chọn một đoạn kinh thánh và theo cách thức sau đây.

1. Đọc truyện hay đoạn trích dẫn trong sách: làm quen với bản văn mà bạn sắp dùng nó. Ghi nhận những tâm tình của bạn trước câu truyện hay đoạn trích dẫn, xem bạn cảm thấy thế nào? Đoạn văn nói gì với bạn? Ghi lại những vấn đề bạn thắc mắc về bản văn và cách áp dụng nó vào bài học.

2. Tìm lại đoạn văn đó trong kinh thánh: bạn nên đọc qua ba lần.

a. Lần nhất: Bạn cảm thấy gì khi đọc bản văn gốc? Đoạn đó nói gì với bạn? Có điểm gì khác với đoạn văn trong sách giáo khoa không? Nếu có thì khác thế nào? Tại sao?

b. Lần thứ hai: đọc chậm với cây bút chì hoặc bút màu. Gạch dưới những từ làm bạn chú ý, ghi lại những thắc mắc, hiểu biết và tâm tình bạn có. Tô đậm những câu tác động làm bạn ưng ý muốn làm vốn riêng sau này.

c. Rồi bạn đọc hết chương đó bao gồm câu truyện hoặc những trích dẫn. Điều này rất quan trọng để giúp bạn thấy được toàn bộ bố cục kinh thánh. Nó sẽ giúp bạn hiểu rõ thêm ý nghĩa của đoạn văn bạn trích và trả lời những vấn nạn của bạn hoặc nêu lên những vấn đề mới.

Về sách kinh thánh hiện nay, chúng tôi đề nghị nên dùng bản kinh thánh Cựu Tân Ước của nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh hoặc bản kinh thánh của linh mục Nguyễn Thế Thuấn và Tân ước của cha An Sơn Vị.

3. Đọc những lời giới thiệu và những phần tiểu dẫn và những chú thích ở trong các sách kinh thánh. Ở đầu hay cuối sách kinh thánh, thường có những phần chỉ dẫn như "cách thức đọc kinh thánh", "cái nhìn sơ lược về lịch sử", phụ lục, chú thích, tự điển, bản đồ, và trước mỗi cuốn đều có những tiểu dẫn về tác giả và nguồn gốc.

Dưới mỗi trang đều có thêm phần chú thích. Nơi những câu khó hiểu thường có những ký hiệu giúp bạn tìm những chú thích ở cuối trang, chẳng hạn ký hiệu mẫu tự in nghiêng và nhỏ ở đầu câu phía trên, hoặc trên một từ cần chú thích. Đồng thời ở lề cạnh bản văn có những ký hiệu giúp bạn nhận ra những đoạn văn, hoặc câu khác liên quan. Những tham khảo này soi sáng thêm cho đoạn văn và giúp bạn hiểu được những liên hệ trong kinh thánh như thế nào.

4. Suy niệm và cầu nguyện theo câu truyện hoặc đoạn kinh thánh bạn vừa đọc. Điều cần thiết là bạn thấu hiểu những điều bạn vừa đọc và thể hiện ngay trong chính cuộc sống bạn. Điều đó mới thực sự hữu ích cho bạn.

Bạn nên để dành thời giờ đọc kinh thánh để cho lời Chúa bén rễ sâu trong bạn. Sau đây là một vài cách thức thực hiện điều đó:

a. Hãy hình dung điều gì xảy ra trong câu chuyện: hoàn cảnh, nơi chốn, nhân vật, xem họ cảm gì, nói gì, làm gì. Bạn cảm thấy Thiên Chúa đang nói gì với bạn qua đoạn văn đó không? Thiên Chúa kêu gọi bạn làm gì?

b. Rồi bạn hãy thưa truyện với Chúa Cha, Chúa Giêsu, với Mẹ Maria về điều bạn nghĩ và cảm thấy khi nghe lời Chúa.

c. Học thuộc lòng một câu ngắn hay một đoạn nhỏ mà bạn thấy quan trọng hoặc điều nào đang tác động đặc biệt nơi bạn.

d. Quyết tâm sống điều bạn cảm thấy lời Chúa mời gọi bạn làm.

 Áp dụng từng bước đơn giản này cho mỗi đoạn lời Chúa mà bạn sẽ chia sẻ, nghĩa là bạn hãy đọc, học, suy tư, cầu nguyện và quyết tâm sống theo. Nhờ thế, bạn sẽ tăng thêm kiến thức kinh thánh và bạn cảm thấy tự tin.

Rồi bạn sẽ cảm thấy nhu cầu phải học kinh thánh sâu hơn nữa.

Hy vọng với những gợi ý trên giúp bạn thấu hiểu lời Chúa.

 

TRIỂN KHAI CHIA SẺ LỜI CHÚA

1. Mỗi tuần, tối thiểu 30 phút, ai phụ trách sẽ chủ sự và điều động buổi “chia sẻ lời Chúa” để mọi người có thể tích cực tham gia.

2. Để chuẩn bị cho buổi chia sẻ đó, xin được đề nghị như sau:


A. CHỦ ĐỀ: nêu chủ điểm hay điểm chung muốn nhấn mạnh cho cả ba bài đọc phụng vụ, có thể khởi đi từ:

1. “Thực trạng” hôm nay

* Nêu rõ những “dấu chỉ thời đại” (hiện tượng).

 

2. “Sứ điệp” lời Chúa

* Rút ra lời mời gọi của Tin mừng (bài học).

 

3. “Viễn tượng” tương lai

* Nhận ra những đòi hỏi của thời đại (thách đố).

 

B. GỢI Ý: bằng một “vấn nạn”

 

1. Cho cộng đoàn: Từ lời Chúa đến cuộc sống (đời tông đồ).

* Mỗi tuần một “ý lực sống”.

 

2. Cho dân Chúa: Từ cuộc sống đến lời Chúa (đời chứng tá).

* Mỗi tuần một “bước đi”.


5. ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN

I. Khái niệm

Trong hiến pháp nền tảng của dòng Đaminh, ngay từ đoạn đầu tiên đã viết rằng: “Sở dĩ anh em đoàn tụ làm một, là để sống hòa hợp trong một nhà và để đồng tâm nhất trí với nhau trong Chúa” (HPNT số 1). Cho nên, không chỉ những tu sĩ nam nữ của dòng anh em Giảng Thuyết sống chung với nhau, mà những anh chị em huynh đoàn giáo dân cũng được mời gọi sống tinh thần cộng đoàn. Cùng tuân giữ kỷ luật của dòng qua việc tuyên hứa, nhằm hiệp thông để các thành viên có thể sống theo tinh thần của các lời khuyên Phúc âm, và nhất là đồng tâm nhất trí với nhau trong ý thức trách nhiệm và thực hiện tốt sứ vụ của người Đaminh.

 

II. Đặc điểm của đời sống cộng đoàn

1. Đời sống cộng đoàn nói chung

Trong một cộng đoàn, một tập thể, mọi người đều được mời gọi sống liên đới với nhau trong tình thương yêu, thân ái, và chính nhờ sự liên kết yêu thương này, sẽ làm cho tập thể ngày càng lớn mạnh. Không ai có thể tự mình làm được tất cả mọi việc, vì mỗi người đều có khả năng ưu điểm cũng như những mặt hạn chế khác nhau. Vì thế, khi chúng ta cùng sống trong một cộng đoàn, một tập thể, chúng ta cùng chia sẻ cho nhau những vui buồn sướng khổ, và cùng đồng trách nhiệm trong sự thăng tiến, thành bại cũng như sự tồn tại của cộng đoàn mà mỗi người là thành viên; nhờ đó, tập thể mới phát triển và mỗi cá nhân mới có đủ cơ hội để thăng tiến trọn vẹn. Người xưa có câu: “Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân”. Như vậy chắc hẳn trong chúng ta, ai cũng nhận thấy tầm quan trọng của đời sống chung.

2. Đời sống cộng đoàn của các tu sĩ dòng Giảng Thuyết

Một trong bốn yếu tố quan trọng đối với các tu sĩ dòng anh em Giảng Thuyết đó là “đời sống cộng đoàn huynh đệ”, được thể hiện qua việc: Cầu nguyện cộng đoàn, học hành, tuân giữ kỷ luật tu trì và nhất là cùng nhau chia sẻ sứ vụ giảng thuyết như là ơn gọi riêng của dòng. Đời sống cộng đoàn đó còn thể hiện rõ nét tính dân chủ và tinh thần trách nhiệm trong công việc.

a. Tính dân chủ

Đây là nét đặc biệt của dòng, với phương cách điều hành và quản trị do bề trên và ban cố vấn điều hành (tu viện, tỉnh dòng…) và do đoàn trưởng cùng với ban phục vụ các cấp (huynh đoàn giáo dân). Các chức vụ này đều do các thành viên trong cộng đoàn bầu ra. Do đó, chúng ta thấy được mối tương quan của các thành viên là mối tương quan huynh đệ: mọi thành viên đều bình đẳng với nhau trong sự tôn trọng.

Việc bầu cử trong dòng theo nguyên tắc đa số để tạo điều kiện cho mọi người bày tỏ ý kiến của mình. Đồng thời, cũng là dịp để cho mỗi thành viên biết tôn trọng người khác. Và là cơ hội để cho mỗi cá nhân biết rằng anh em không phải là những con người đứng bên cạnh, đứng chung, nhưng là những người cùng sống, cùng làm việc, cùng chia sẻ với nhau mọi điều thuận lợi cũng như những khó khăn để thăng tiến và phát triển cộng đoàn.

b. Tinh thần trách nhiệm

Mỗi thành viên trong cộng đoàn phải có tinh thần trách nhiệm, coi khó khăn của cộng đoàn cũng là của mình, mọi người cùng chung vai gánh vác, chia sẻ với nhau các công việc chung của cộng đoàn. Vì khi chúng ta tín nhiệm một người anh em vào một chức vụ là chúng ta cùng quyết tâm chia sẻ trách nhiệm với người đó.

3. Người giáo dân Đaminh với đời sống cộng đoàn

Sống trong tinh thần và đoàn sủng của thánh Đaminh và là một thành phần của dòng anh em Giảng Thuyết, người giáo dân Đaminh cũng được mời gọi tham gia vào đời sống cộng đoàn, nhưng việc sống chung đối với người giáo dân là một ngoại lệ. Cũng như các tu sĩ, anh chị em giáo dân Đaminh cũng là một phần tử của cộng đoàn sống liên đới yêu thương, do vậy danh xưng của cộng đoàn giáo dân Đaminh là huynh đoàn: cộng đoàn của những người sống tình huynh đệ. Trong luật sống của người giáo dân Đaminh cũng nêu rất rõ về tình liên đới yêu thương trong đời sống chung (LS 14,15,18), và đối với anh chị em giáo dân Đaminh, việc thể hiện tinh thần cộng đoàn được biểu lộ rõ nét nhất nơi tình liên đới giữa các thành viên trong ban phục vụ và qua hai việc làm thường kỳ sau đây:

- Đọc kinh cầu nguyện chung với nhau: Đọc lại Luật Sống của người giáo dân Đaminh Việt Nam (LS 4-8) cũng như luật chung của huynh đoàn Đaminh, chúng ta thấy việc cầu nguyện cộng đoàn nơi người giáo dân Đaminh thật cần thiết và quan trọng: ở đó, mọi người cùng chia sẻ cho nhau những vui buồn, thông báo tin tức để cùng nhau hiệp thông trong lời cầu nguyện, và cũng là dịp để mọi thành viên trong cộng đoàn cùng quy tụ lại với nhau trong Chúa.

- Tham dự nguyệt hội: Đây là điều bắt buộc đối với các thành viên trong huynh đoàn (xc LS 80), được diễn ra một tháng một lần và là dấu chỉ rõ ràng nhất của tinh thần cộng đoàn nơi người giáo dân Đaminh; mà ở đó mọi người cùng bàn bạc, tính toán, dự thảo kế hoạch, sắp xếp phân công và cùng nhau cầu nguyện.

Tuy người giáo dân Đaminh không phải sống chung với nhau trong một nhà, nhưng qua lời tuyên hứa, họ vẫn được mời gọi sống cộng đoàn và được biểu lộ theo cách thức riêng của người giáo dân. Tuy nhiên, trên hết và trước hết, mọi người phải đặt trọng tâm là bác ái, yêu thương huynh đệ, để rồi từ đó lòng yêu mến của mỗi thành viên sẽ được tỏa sáng, hầu có thể đem tình thương và chân lý của Chúa tỏa sáng khắp cho mọi người.

 

III. Kết luận

Chúng ta vẫn từng được nghe nói: không ai là một hòn đảo, hay  một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao; ta thấy được tầm quan trọng của đời sống chung trong xã hội loài người, và ở đó, mỗi cá nhân đem hết tài lực khả năng của mình ra đóng góp cho cộng đồng, và cách riêng anh chị em trong huynh đoàn giáo dân chúng ta, phải đem tình bác ái của Chúa Kitô, áp dụng tinh thần và đoàn sủng của dòng anh em Giảng Thuyết mà cùng xây dựng huynh đoàn, để chính nhờ đó, chúng ta giúp nhau nên thánh đồng thời cũng là một phương thế hữu hiệu để truyền rao Tin mừng.


Comments

Popular posts from this blog

Phụ tỉnh thánh Vinh Sơn Liêm

Tài liệu học hỏi